Đời Sống Không Thoả Hiệp
Đời Sống Không Thoả Hiệp
Chúng
ta hãy mở Kinh Thánh ra, sách Đaniên, chương 1. Tôi nghĩ tối nay, y như tôi đã nhắc
sáng nay rằng chúng ta sẽ nhìn vào một phân đoạn Kinh thánh xử lý với vấn đề của
một đời sống không thoả hiệp trong một thế giới có đủ thứ thỏa hiệp. Không một
người nào minh hoạ điều đó tốt hơn Đaniên. Và chúng ta sẽ có một khoảng thời
gian tuyệt vời để nếm trải một vài câu ở đây trong chương 1 để thấy rằng mực
không thể bôi xóa thực tại một đời sống không thoả hiệp.
Tôi
cho rằng bạn đã nghe nói đến việc ấy nhiều lần rồi, đó là mỗi người đều có cái
giá của mình. Và cái giá của bạn là bất cứ thứ gì chỉ ra bạn đang muốn tống khứ
đi. Những gì bạn tin quyết, các tiêu chuẩn đạo đức vì một số lợi ích riêng, một
sự thành tựu riêng, một ham muốn riêng. Mỗi người đều có giá của mình, tôi cho
rằng điều đó là thực trong thế gian mà lại không thực đối với những người tin
Chúa. Nhưng về chúng ta thì là thực đấy, vì chẳng có cái giá nào sẽ khiến chúng
ta phải thoả hiệp những gì chúng ta biết là đúng và những gì chúng ta tin là
tiêu chuẩn thiêng liêng.
Martin
Luther trước mặt Hội đồng thành phố Worms, họ yêu cầu ông từ bỏ hoặc mất mạng
và vì vậy ông đã mất mạng sống mình. Ông sẽ không từ bỏ những gì ông đã tin,
Latimar và Ridley đứng trước mấy cây cọc, ở đó họ sẽ bị thiêu đốt cho đến chết.
Những người hành quyết họ đòi hỏi họ chối bỏ Đức Chúa Jêsus Christ, họ đã từ chối
và bị thiêu cháy trong ngọn lửa đó.
Tôi
nhớ có đọc câu chuyện nói tới Mục sư Hung, ông đã nhìn thấy người Nhật cắt ngón
tay cái của cha mình ở Bắc Triều Tiên cách đây không lâu bởi vì cha ông không chịu
chối bỏ Đức Chúa Jêsus Christ. Tôi đã rất vui và có được kinh nghiệm phấn khởi
khi đọc về những người thoả thuận vào thời điểm lịch sử Anh quốc khi nhà cầm
quyền đòi hỏi nhà Vua được công nhận là đầu của Hội thánh. Và có một nhóm người
Tô cách Lan phần lớn họ hầu như từ chối không công nhận nhà Vua là đầu của Hội
thánh vì họ nói: "Đức Chúa Jêsus Christ là đầu của
Hội Thánh".
Một
trong những người cao thượng nhất là một nhà truyền đạo có tên là Richard
Cameron. Và một ngày kia, có tiếng gõ cửa nhà của cha của Richard Cameron. Ông ra
đến cửa thì thấy một sứ giả đứng đó, với cái hộp mở ra và trong hộp ông có cái đầu
và hai bàn tay của con trai mình. Và cha ông trả lời bằng câu nói: "Đức Giê-hô-va ban
cho, Đức Giê-hô-va cất đi, đáng chúc tụng thay danh Đức Giê-hô-va". Có những người đã
trả giá thật lớn lao để đứng trên nền của họ và không thỏa hiệp với bất cứ giá
nào. Mặt khác, hết thảy chúng ta đã từng nghe nói tới những người khoe khoang về
tiêu chuẩn đạo đức của họ giống như nói đến một trận cầu thật hay vậy. Chúng ta
muốn tán dương sự công bình nơi phẩm chất họ, một bộ tín điều quan trọng của họ
và tuy nhiên vì một mục đích lợi lộc nào đó họ đã tống khứ đi.
Thỏa
hiệp. Người ta nói họ tin theo Kinh Thánh nhưng lại có mặt trong các nhà thờ mà
ở đó Kinh Thánh không được đem ra dạy dỗ. Người ta xưng ra những điều họ tin
quyết về tội lỗi và những điều tin quyết về án phạt cho đến khi tội lỗi đó bị
con cái của họ phạm phải. Người ta nói họ phải nói ra về sự không chung thuỷ và
họ phải nói ra về sự đồi bại cho đến khi điều đó đề cập đến ông chủ của họ và họ
có thể bị mất việc làm. Người ta có các tiêu chuẩn đạo đức cao cho đến khi họ
được giải thoát ra khỏi tình trạng nô lệ của một sự hiểu biết thánh. Họ tham
gia vào một mối quan hệ bất khiết rồi sau đó bắt đầu hợp lý hóa sự thỏa hiệp của
họ.
Người
ta trung thực cho đến khi chỉ một chút không trung thực có thể tiết kiệm cho họ
nhiều tiền bạc hoặc đem lại cho họ một lợi thế lớn. Người ta biết một việc là
sai lầm, nhưng vì lợi ích của sự hòa thuận, họ sẽ che đậy nó. Người ta sẽ thực
thi một hành động chống lại lời xưng nhận của họ đối với những điều tin quyết khi
có ai đến hỏi họ ngưỡng mộ hay sợ hãi kẻ mà họ tìm kiếm một đặc ân. Người ta sẽ
không nói những gì thực sự cần được nói nếu họ cảm thấy họ có thể mất mặt. Và
như vậy là thỏa hiệp đấy.
A-đam
đã thoả hiệp luật pháp của Đức Chúa Trời, bước theo tội lỗi của vợ mình và mất
đi thiên đàng. Ápraham đã thoả hiệp với sự thực, nói dối về Sa-ra rồi gần mất mạng
sống mình. Sa-ra đã thoả hiệp Lời của Đức Chúa Trời, đưa Ápraham đến với A-ga,
nàng đã sanh Ích-ma-ên rồi mất ổn định ở vùng Trung Đông cho đến bây giờ. Ê-sau
đã thoả hiệp vì một bữa ăn với Giacốp rồi mất đi quyền con trưởng của mình; Sau-lơ
đã thoả hiệp Lời thiêng liêng, đã giữ lại bầy gia súc và mất đi dòng dõi hoàng
tộc. A-rôn đã thoả hiệp những điều mình tin quyết về tình trạng thờ lạy hình tượng
và ông cùng dân sự mất đi đặc ân của Đất Hứa. Sam-sôn đã thoả hiệp sự tin kính
công bình là người Na-xi-rê với Đa-li-la, mất hết sức lực mình, mất đi đôi mắt
và mất đi mạng sống mình.
Israel
đã thoả hiệp các mạng lịnh của Chúa, sống trong tội lỗi và ra giao chiến với
dân Phi-li-tin mất đi Đức Chúa Trời. David đã thỏa hiệp tiêu chuẩn đạo đức thiêng
liêng và tà dâm với Bát-sê-ba, giết chết U-ri và mất đi đứa con của mình.
Sa-lô-môn đã thoả hiệp những điều ông tin quyết, kết hôn với nhiều vợ ngoại bang
rồi mất đi cả vương quốc. A-háp đã thỏa hiệp, kết hôn với Giê-sa-bên rồi mất
ngôi vua của mình. Y-sơ-ra-ên đã thoả hiệp luật pháp của Đức Chúa Trời, bước
vào tội lỗi và thờ lạy hình tượng rối mất quê hương. Phi-e-rơ đã thoả hiệp những
điều ông tin quyết về Đấng Christ, chối bỏ Ngài và mất đi sự vui mừng. Phierơ đã
thỏa hiệp lẽ thật của hội thánh duy nhất tiếp đón những người theo Do-thái giáo
và mất đi sự tự do của mình. A-na-nia cùng với vợ ông đã thoả hiệp lời nói của
họ về việc và mất mạng. Giuđa đã thỏa hiệp với cơ hội của mình và đánh đổi tình
cảm dành cho Đấng Christ lấy 30 miếng bạc và bị mất linh hồn cho đến đời đời.
Có
một số người chúng ta nhớ đến họ rất rõ vì họ không chịu thoả hiệp, Môi-se ở
trước mặt Pha-ra-ôn, David nhiều lần, Phaolô trước mặt Phê-lít, Phê-tu và Ạt-ríp-ba,
nhưng không có một người nào là minh hoạ tốt hơn về ánh sáng không thoả hiệp
hơn là Đaniên. Ông cung ứng cho chúng ta phần minh hoạ rõ ràng nhất về ý nghĩa
của việc sống không thoả hiệp. Chúng ta hãy nhìn vào Đaniên chương 1 trong quyển
Kinh Thánh của chúng ta, và có một cái nhìn thoáng qua đời sống không thoả hiệp
của chàng thanh niên đáng kinh ngạc nầy.
Trong
khi bạn mở Đaniên, chương 1 ra, tôi đã đọc một lần về một nhà tự nhiên học nổi
tiếng, là người đã viết một quyển sách giáo khoa nói về các loài thực vật biển.
Và ông đặc biệt quan tâm đến các loài thực vật biển phát triển từ độ sâu 150 đến
200 feet trong đại dương và trôi nổi trên các làn sóng đập vào bờ rồi bị cuốn hẳn
lên bờ. Ông viết rằng loài thực vật nầy dày
chưa đầy một inch, nhưng nó mọc lên, phát triển mạnh và có sức chống lại những
làn sóng vỗ cùng áp lực của thứ sóng mạnh đập vào bờ đó. Nó mọc đâu đó giữa 150
và 200 feet có nghĩa là gần bờ, nó cảm nhận các lượn sóng vỡ bờ kia.
Ông
cho biết đâu là bí quyết của sức chịu đựng kháng cự lạ lùng nầy? Làm thế nào loại
thực vật mảnh mai này có thể đối mặt với sự giận dữ của các hiện tượng khí tượng
kia và bất chấp giông bão, nó giữ được và duy trì từ thế kỷ này sang thế kỷ
khác. Rõ ràng có một số sẽ chết đi và được dọn dẹp, những thứ khác chiếm lấy chỗ
của chúng rồi trụ trong một thời gian khá dài. Ông cho biết câu trả lời rất là đơn
giản, nó chìm sâu xuống đại dương, ở đó nó theo bản năng bám vào những tảng đá trơ
trụi ở dưới cát, không có một sự xáo trộn nào của nước biển có thể lay nó ra khỏi
cái bám chặt của nó.
Nhà
tự nhiên học đó thực sự cho chúng ta một minh hoạ về việc sống một đời sống
không thoả hiệp có ý nghĩa như thế nào! Đời sống ấy cần phải với tới lớp cát trên
mặt của một xã hội rồi bám chặt vào rặng đá ở bên dưới nó. Ða-ni-ên đã sống ở
Ba-by-lôn và Ba-by-lôn là một xã hội kiểu tà giáo theo từng ý nghĩa. Bất chấp về
Đức Chúa Trời chân thật là bằng chứng họ đã tấn công đất của Israel, báng bổ Đức
Chúa Trời chân thật rồi bắt mọi người đi làm phu tù những ai không bị giết. Và
trong khi Đa-ni-ên đang sống trong những lượn sóng ba đào đó, những cơn sóng
điên cuồng và lớp cát mặt của ba đào, linh hồn của ông đã neo vào vầng đá. Và nhờ
đó ông không bị lay động và không thể hủy diệt được.
Ông
hoàn toàn không bằng lòng thỏa hiệp với những điều tuyệt đối mà ông tin là luật
pháp của Đức Chúa Trời. Và đấy là những gì đã neo ông vào vầng đá tin cậy ngay
cả trong giông bão phu tù cùng các nỗ lực của người Canh-đê hòng tẩy não ông.
Khi những người Canh-đê hay người Ba-by-lôn cũng như nhau, người Ba-by-lôn nói
về dân tộc và người Canh-đê nói về xã hội, khi họ bắt người Do-thái đi làm phu
tù và khi họ bắt người Do-thái vào cuộc phu tù năm 586TC và thậm chí trước đó nữa,
ba lần đi đày thực sự bắt đầu khoảng năm hay sáu năm trước năm 586TC. Nhưng khi
họ bắt những người Do-thái này đi làm phu tù, họ đã quyết rằng họ sẽ có khả
năng khống chế thứ dân phu tù nầy. Rất là khó khăn khi đưa toàn bộ một dân tộc
đi làm phu tù vào trong đất của bạn rồi ra sức khống chế những kẻ rất yêu nước
như thế nầy. Và họ biết rằng để làm được công việc ấy, họ cần phải có một số
lãnh đạo của chính dân tộc ấy. Một số người Do-thái của họ đã huấn luyện họ và
để cho họ làm lãnh đạo của họ.
Vấn
đề quản lý rất quan trọng khi ấy đối với họ trong cuộc phu tù là phải đưa theo với
họ một số thanh niên quí tộc người Do-thái, họ có thể dấy lên nắm lấy quyền
lãnh đạo. Họ muốn chọn những thanh niên có thể chất đáng chuộng, họ có thể cuốn
hút mọi người như hết thảy chúng ta đều biết bằng chính vẻ bề ngoài và cá tính
của họ, họ muốn đưa những thanh niên có năng lực trí tuệ và được ơn trong xã hội.
Họ muốn đẩy những thanh niên ấy qua hệ thống văn hoá của người Canh-đê, huấn
luyện họ, đào tạo họ, phát triển họ thành tư duy của người Canh-đê và cùng với
mối liên hệ Do-thái của họ, sử dụng họ để cai trị trên dân này mà họ đã có
trong tay họ.
Vì
vậy, khi họ đến trong thời kỳ thứ nhứt, cuộc lưu đày đầu tiên khoảng năm 605TC và
họ khởi sự đưa dân sự vào chốn phu tù ra khỏi xứ Giu-đa, họ đã khởi sự bằng
cách bắt lấy một số thanh niên. Giữa vòng các thanh niên ấy là Đa-ni-ên. Không
những là Đa-ni-ên, mà ông còn có ba người bạn nữa. Họ được nhắc tới trong câu 6
của chương 1 là Ha-na-nia, Mi-sa-ên và A-xa-ria. Bấy giờ, những cái tên nầy
không quen thuộc đối với bạn, nhưng đó là những cái tên của người Do-thái. Và
thật quan trọng, những cái tên đó gắn họ với di sản Do-thái của họ. Tất nhiên
là bạn sẽ để ý, việc thứ nhứt mà người Ba-by-lôn đã làm là đổi tên của họ thành
ra Sa-đơ-rắc, Mê-sác and A-bết-nê-gô. Họ muốn dành cho mấy thanh niên nầy những
cái tên xác định họ với xã hội người Canh-đê và sẽ trở thành một phần của việc
trục bỏ di sản của người Do-thái đi. Họ đã có hai lãnh vực tấn công khác hầu tẩy
não các thanh niên nầy.
Việc
thứ nhứt là phải thay đổi lai lịch của họ bằng cách cung ứng cho họ những cái
tên của người Canh-đê. Và bằng cách đặt những cái tên đó cho họ, những cái tên theo
người Canh-đê lại quen thuộc đối với chúng ta, Sa-đơ-rắc, Mê-sác và A-bết-nê-gô,
hết thảy ba cái tên đó đều được gắn với danh xưng của các thần linh của người Ba-by-lôn.
Trong trường hợp những cái tên cũ của họ ít nhất trong trường hợp của Đa-ni-ên [Daniel],
và trong trường hợp của Mê-sác [Mishael],
hai chữ cái cuối cùng của tên Đa-ni-ên (Daniel) và tên của Mi-sa-ên [Mishael] là
cụm từ E – L – EL chỉ về Đức Chúa Trời, họ đã được gắn với Đức Chúa Trời của người
Hê-bơ-rơ, bây giờ họ đã được đặt cho những cái tên có liên quan đến thần linh của
người Canh-đê hoặc các thần linh của người Canh-đê.
Họ
muốn thay đổi lai lịch của mấy người nầy. Và họ đã khởi sự với tiến trình đó bằng
cách đổi tên. Thứ hai, họ muốn thay đổi niềm tin của họ. Họ muốn thay đổi niềm
tin, các giá trị của mấy người nầy. Và họ đã làm điều đó bằng cách đưa họ qua
hoặc họ đã nỗ lực làm điều đó bằng cách đưa họ qua nền giáo dục của người
Canh-đê. Họ mong muốn những điều này như có chép ở câu 4 mặt mày xinh tốt, tập
mọi sự khôn ngoan, biết cách trí, đủ sự thông hiểu khoa học, có thể đừng chầu
trong cung vua, họ muốn những thanh niên có tài, được đào tạo với mọi sự khôn
ngoan và mọi sự dạy dỗ và mọi tri thức của người Canh-đê để họ có thể thuần hóa
mấy người ấy. Hầu cho mấy người đó có thể thích ứng với họ và chỉnh cho đúng với
xã hội mới.
Và thế
là họ đã đổi tên của mấy thanh niên nầy, rồi họ đưa mấy người ấy qua một tiến trình
giáo dục. Việc thứ ba mà họ đã làm với mấy người ấy là thay đổi nếp sống của họ.
Họ đã thay đổi nếp sống của mấy người nầy theo câu 5 cho biết, nhà vua đã ấn định
cho họ một suất ăn hàng ngày từ thức ăn được chọn của nhà Vua và từ rượu mà ông
đã uống. Và mục đích là họ phải được đào tạo trong 3 năm, ở phần cuối của ba
năm đó họ sẽ bước vào công việc với đích thân nhà Vua. Thế là, có học vấn, đổi
tên và nếp sống. Và nếp sống ấy sẽ thay đổi bằng cách dọn cho họ với đồ ăn thức
uống của người Canh-đê. Không những là đồ ăn thức uống mà còn là mọi thứ diễn
ra trong các dịp ăn uống trong xã hội nữa.
Điều
thú vị đủ, bốn thanh niên này lúc đầu đã chấp nhận những cái tên mới kia, họ chấp
nhận điều thứ hai, không có dấu hiệu nào cho thấy họ đã chiến đấu chống lại nền
giáo dục nhưng khi đến việc thứ ba, thay đổi nếp sống của họ, họ đã từ chối. Bởi
vì đó là vấn đề có khả năng tàn phá. Việc đổi tên chỉ là một sự sửa đổi bề
ngoài. Tiến trình giáo dục có thể được lọc qua luật pháp của Đức Chúa Trời mà họ
vốn biết rất rõ. Một thanh niên ngày nay có thể được nuôi dạy trong một gia
đình, ở đó anh ta được đặt tên để nhận dạng anh ta bằng cách này hay cách khác
với xã hội. Anh ta có thể được tiếp xúc với nền giáo dục thế tục giống như phần
nhiều trong các bạn đang có và bản thân tôi có nữa. Và chúng ta không bị ảnh hưởng
nhiều bởi điều đó vì nếu chúng ta có một nền tảng vững chắc trong Lời của Đức
Chúa Trời, mọi sự mà nền giáo dục thế tục đó phải đi qua mạng lưới của lẽ thật
thiêng liêng.
Hai
việc đầu tiên không đe doạ đến họ bởi vì họ biết họ đã tin điều gì và họ đã ổn
định chặt chẽ vào Lời của Đức Chúa Trời và họ sẽ đánh giá việc giảng dạy theo ánh
sáng của Lời ấy. Họ có thể đổi tên, nhưng họ không thể đổi lòng của họ được.
Nhưng điều họ không chấp nhận là để cho nếp sống của họ bị thay đổi. Nếu họ đã nhường
theo nếp sống của người Canh-đê; họ sẽ thẳng thừng chối bỏ Lời của Chúa. Và thực
vậy, họ đã chối bỏ lai lịch mà họ đã mang trong vai trò dân giao ước. Tại sao
chứ?
Phải,
trên hết mọi sự vì đồ ăn của nhà vua đã được dâng cho hình tượng trước khi nó
được dọn để mà ăn. Nói cách khác, khi chúng ta đọc về sứ đồ Phao-lô và thời điểm
ông đã sống với những người ngoại đạo sẽ dùng thịt, đồ ăn và rượu, bất cứ thứ
gì và dâng cho các thần linh của họ. Rõ ràng thần linh là một hình tượng và
không thể ăn được các thứ ấy. Và nó sẽ đi qua tay thầy tế lễ một phần và một phần
của nó sẽ đến với người đem của lễ đến trong chỗ thứ nhứt. Khi ấy sẽ có một loại
bữa ăn trong đó họ sẽ ăn đồ ăn này đã dâng cho các hình tượng.
Vì
vậy, có toàn bộ hơi hướm của tình trạng thờ lạy hình tượng, loại hình thờ lạy
liên kết với cách ăn uống như thế nầy. Hơn nữa, việc ăn uống là một sự kiện chính
trong xã hội trong thời cổ đại, và sự lộng lẫy, say sưa, ăn chơi đi kèm với những
sự kiện như vậy sẽ trái với sự tinh khiết đơn sơ mà Lời của Đức Chúa Trời đòi hỏi.
Và hơn thế nữa, luật pháp của Đức Chúa Trời có luật lệ về chế độ ăn uống rất
nghiêm ngặt không được dùng đến. Và để giữ cho người Do-thái biệt riêng ra khỏi
ảnh hưởng của xã hội tà giáo, Đức Chúa Trời đã ban hành các luật lệ đó trong chỗ
thứ nhứt. Và tôi hy vọng bạn hiểu rằng luật lệ ăn uống của người Do-thái không
chủ yếu vì những lý do sức khoẻ.
Các
luật lệ ấy là những lý do cho sự phân rẽ. Bởi vì hầu hết sự thay đổi nếp sống đã
xảy ra quanh cái bàn ăn, xung quanh các bữa tiệc và lễ hội, nơi thức ăn được
tiêu thụ. Và kỳ thực, người Do Thái không thể tham dự vào các sự kiện xã hội
như vậy bởi vì họ không bao giờ ăn thứ đồ ăn mà theo Đức Chúa Trời đấy là cách
Ngài dự trù để giữ họ tránh ảnh hưởng của xã hội tà giáo chuyên thờ lạy hình tượng.
Cựu Ước đã không nói gì về cái tên của bạn, Cựu Ước đã không nói gì về lối giáo
dục thể ấy, song Kinh Thánh nói rất nhiều về các thứ bạn ăn và uống. Vì vậy, đấy
là chỗ mà họ có một lằn ranh.
Và
bạn nhìn thấy việc ấy ở câu 8. Nhưng Đa-ni-ên đã ý thức được rằng mình sẽ không
tự làm ô uế mình với đồ ăn chọn lọc của nhà vua hoặc với rượu vua uống. Đấy là
chìa khóa. Ông có thể chấp nhận việc thay đổi tên họ, ông có thể chấp nhận tiến
trình giáo dục và chắt lọc qua Lời của Đức Chúa Trời, nhưng cái điều ông không
làm theo là thay đổi nếp sống của ông.
Một
lý do khác ông không muốn tham gia vào, đó là lối sống của nhà vua, đồ ăn của vua
và rượu của vua sẽ là món ngon nhất và xa hoa nhất trong mọi xứ nếu không phải
là mọi nơi trong thế gian vào thời điểm cổ đại ấy, là Vương quốc tối cao trong
thế giới. Họ sẽ đưa ông đến một cấp độ của chủ nghĩa duy vật và tự nuông chìu
vượt quá những gì có thể tôn vinh Đức Chúa Trời. Vì vậy, người Canh-đê đã nỗ lực
làm tan chảy bốn thanh niên này và cải hoá họ trở thành người Canh-đê. Và rồi
khi ấy sử dụng họ để dẫn dắt người Do-thái và giữ sự hòa bình giữa người Do-thái
và tìm cách khống chế những người xa xứ nầy, họ hiện đang ở trong xứ sở của họ.
Nhưng
câu 8 cho biết Đa-ni-ên đã quyết ở trong lòng mình; ông sẽ không tự làm ô uế
mình với đồ ăn chọn lọc của nhà vua hoặc với rượu mà ông ta đã uống. Tôi cho rằng
cái điều đáng kinh ngạc lạ lùng về địa vị của ông, ấy là ông mới được 14 hay 15
tuổi. Bạn nghĩ đến Đa-ni-ên, có lẽ bạn nghĩ đến một đấng mày râu vì đó là những
gì bạn nhìn thấy được vẽ ra nơi hang sư tử trong các quyển sách Cơ đốc nhỏ bé
mà bạn đã đọc. Nhưng khi Đa-ni-ên đến chiếm lấy chỗ đứng của mình, ông là một
thanh niên 14 hoặc 15 tuổi ở dưới áp lực lớn lao và đã chìu theo sau đó sự phân
rẻ đối với gia đình ông và đã rời khỏi gia đình và thẳng thắn phân rẽ ra khỏi mọi
sự trình sổ theo cách cá nhân.
Tôi
muốn nói thẳng ra là chẳng có ai ở đó để coi chừng ông cả; ai đó ít nhất từ quá
khứ của ông, đã sống bất cứ loại đời sống nào mà ông muốn. Chắc chắn đã không
có bất kỳ quyền đòi hỏi nào trong xã hội hết. Vì vậy, nếu bạn muốn hiểu rõ phẩm
chất của Đa-ni-ên, bạn phải thấy ông đang ở trong một môi trường hoàn toàn xa lạ
dưới áp lực rất lớn trong vai trò một thanh niên đang nắm lấy chỗ đứng vững chắc
không thoả hiệp trên những điều tuyệt đối của Lời Đức Chúa Trời. Và hết thảy những
sự dẫn dụ, hết thảy mọi học vấn, mọi sự khích lệ, mọi sự đút lót, mọi áp lực, mọi
tham vọng và vinh hiển của triều đình nhà Vua không thể khiến ông phải thoả hiệp
những gì ông biết là thật và đúng.
Họ
sẽ học ngôn ngữ của nhà Vua, họ sẽ nghiên cứu về giáo dục của người Canh-đê, họ
sẽ chắt lọc hết thảy những điều đó qua Lời của Đức Chúa Trời và bởi đó họ sẽ học
biết những sai trái của dân ấy. Và việc học biết những sai trái của họ sẽ có khả
năng truyền đạt lẽ thật của Đức Chúa Trời cho họ. Tuy nhiên, họ không bao giờ chấp
nhận nếp sống của dân ấy. Chính thất bại không sử dụng nếp sống của họ mà
Đa-ni-ên đã bị bỏ vào hang sư tử, có phải không? Và Sa-đơ-rắc, Mê-sác và A-bết-nê-gô
của Đức Chúa Trời đã bị quăng vào lò lửa hực.
Và
tôi muốn thêm vào điểm đặc biệt này, rằng ảnh hưởng xấu nhất trong một xã hội
không phải là triết lý, nếp sống của nó. Một nếp sống của bất kỳ xã hội nào cũng
là việc xấu nhất. Ấy chẳng phải chúng ta rơi vào cấp độ triết học mà chúng ta
rơi xuống mức sống, có phải không? Phần nhiều người trong chúng ta đã trải qua nền
giáo dục thế tục ở mức độ này hay mức độ khác. Nền giáo dục đó cho chúng ta biết
về nghĩ suy của xã hội chúng ta, có lẽ nó giúp chúng ta nhìn thấy sự thật rõ
ràng hơn so với cái phông sai lầm do đối chiếu chúng ta đã tiếp thu cách thức đương
diện với nó. Chúng ta đã học biết các nhược điểm của nó và phải đối đáp thế nào
với nó.
Nhưng những gì thực sự sẽ
xé nát cuộc sống của bạn là bắt đầu điều chỉnh nếp sống của xã hội. Đấy là khi
việc tẩy não đã thành công. Đó là lý do tại sao Châm ngôn 4:23 chép rằng: “Khá cẩn thận giữ tấm lòng của con hơn hết, vì
các nguồn sự sống do nơi nó mà ra”.
Đa-ni-ên là một thanh niên không thỏa hiệp về mặt nếp sống và tôi muốn chỉ
cho bạn thấy các kết quả của việc ấy. Chúng ta hãy nhìn vào phần thứ nhứt ở câu
8. "Vả,
Đa-ni-ên quyết định trong lòng rằng không chịu ô uế bởi đồ ngon vua ăn và rượu
vua uống".
Ông từ chối ảnh hưởng của nếp sống. Và tiếp đến: "cầu xin người làm đầu hoạn quan để đừng bắt
mình phải tự làm ô uế". Việc
thứ nhứt tôi nhìn thấy về Đa-ni-ên là một sự dạn dĩ không xấu hổ. Nếu bạn đang lấy
ghi chú, bạn có thể ghi ra điều đó.
Một
sự dạn dĩ không xấu hổ. Bây giờ có một người được phân công chăm sóc các thanh
niên này bởi vì đây là dự án rất quan trọng. Họ sẽ có ba năm giáo dục rất quan
trọng, nhà Vua trong câu 3 ra lệnh cho Át-bê-na, người đứng đầu các quan chức của
nhà vua, vì vậy đây là một nhân vật có đẳng cấp cao phải chú ý đến một số con cái
của Israel bao gồm một số gia đình hoàng tộc và quý tộc. Những thanh thiếu niên
không có một nhược điểm nào cả. Và họ sẽ lần đến phần cuối của câu năm, bước
vào công việc riêng với nhà Vua.
Đến
câu 7, vị quan trưởng của các quan chức được phân công đặt tên mới cho họ.
Nhưng họ đang chịu dưới quyền người nầy tên là Át-bê-na, là người có đẳng cấp rất
cao. Và cái điều tuyệt vời về Đa-ni-ên là khi ông đến gặp Át-bê-na để nói: "Hãy xem, chúng ta không thể ăn
đồ ăn này". Ông thể hiện một lượng dũng cảm đáng gờm. Ông
không nói rằng quan biết tôi có một nan đề thực sự, quan các ông có gia vị khác
và bao tử tôi không sao dùng được món ấy. Ông không nói thế. Ông không nói quan
biết tôi không được khỏe, tôi bị loét kinh niên, tôi đã bị điều đó từ khi tôi
11 tuổi, quan biết đấy. Hoặc quan biết điều này là rất khó điều chỉnh đối với đồ
ăn của quan, dường như tôi không thể điều chỉnh đối với món ăn ấy hoặc quan biết
rằng vì cớ sức khỏe của riêng tôi và vì bị loét kinh niên như thế tôi cần có một
chế độ ăn uống đặc biệt, ông không nói như thế đâu.
Điều
ông đã nói là: "Tôi
không thể ăn thứ này vì nó sẽ cho tôi phải ô uế". Bấy
giờ, vị quan mà ông trao đổi với quá biết ông không nói về một việc thuộc thể
đâu, viên quan biết rõ ông đang nói về một việc thuộc linh kia. Một việc thuộc
linh rất quan trọng. Ông nói:
"Tôi không thể ăn đồ ăn của Vua và tôi không thể uống rượu của Vua vì nó sẽ
làm cho tôi phải ô uế". Nói cách khác, tôi có một
niềm tin chống lại điều này. Thực vậy, tôi tin rằng sẽ phải cần đến một số loại
giải thích khi ông nói với Át-bê-na đây là lý do. Ông hẳn đã phải giải thích một
việc gì đó cho ông ta và vì thế ông phải nêu ra Lời của Đức Chúa Trời, nêu ra tiêu
chuẩn của Đức Chúa Trời và các nguyên tắc của Đức Chúa Trời. Mọi sự nầy chỉ cho
tôi thấy rằng Đa-ni-ên không hổ thẹn về Đức Chúa Trời của mình, ông không xấu hổ
về đức tin của mình nơi Đức Chúa Trời, ông không xấu hổ về sự vâng phục của ông.
Ngay cả ở xứ Ba-by-lôn tà giáo, ông nói rằng tôi sẽ không ăn thứ đó và đây là
lý do tại sao tôi không ăn thứ đó vì nó làm cho tôi phải ô uế.
Và
thực vậy, sứ điệp đến trực tiếp với nhà Vua, và là người có quyền giết ông vì bất
tuân và nổi loạn, lại không hề, không từng cản trở sự cam kết của ông, vì
Đa-ni-ên là tù nhân của nhà vua. Đối với người bình thường nỗi sợ hãi của con
người mang lại một sự nhạo báng, nhưng Đa-ni-ên thì không! Nhưng những ai có một
phẩm chất không thoả hiệp, họ có một lòng dũng cảm không e dè chi hết. Hai cái
đi song hành với nhau. Họ không nói nước đôi, họ không nói đùa, họ không tìm
cách đưa ra một số lý do phụ họ sẵn sàng nắm lấy một chỗ đứng chính xác đâu là
vấn đề. Trong Thi Thiên 119 câu 46, Kinh Thánh chép rằng:
“Cũng sẽ nói về
chứng cớ Chúa trước mặt các vua, không phải mất cỡ chút nào”.
Đa-ni-ên
có loại phẩm chất ấy không hề sợ hãi và dạn dĩ trước mặt các vua, trước những
người cầm quyền, trước những kẻ theo tà giáo và nói ra lẽ chơn thật, rằng tinh
thần bất khuất không ngớt trước lời cam kết hoàn toàn và trọn vẹn đối với Đức
Chúa Trời. Giêrêmi gọi nó là can đảm vì chân lý. Êxêchiên nói nó giống như mặt
của bạn kề bên đá lửa. I Sử ký 12:8 chép rằng điều đó: "diện mạo như sư tử". Giờ
đây, đấy là việc thứ nhứt tôi nhìn thấy về phẩm chất không thoả hiệp của Đa-ni-ên.
Ông có sự can đảm thánh khiết không sợ hãi chẳng biết đến mất cở, ông vui mừng
khi mang danh của Đức Chúa Trời, ông vui mừng đứng vững vì Lời của Đức Chúa Trời
và ông vui mừng tuân theo Lời của Đức Chúa Trời cho dù người mà ông nói với là
ai.
Có việc
thứ hai mà tôi muốn bạn phải nhìn thấy. Không những một sự dạn dĩ không mất cở,
mà còn việc thứ hai rất thực về một người không thoả hiệp là một tiêu chuẩn bất
thường. Một tiêu chuẩn bất thường. Trong cùng câu Kinh Thánh mà tôi vừa đọc, rất
thú vị đối với tôi vì câu ấy chép rằng ông sẽ không tự làm ô uế mình với đồ ăn
chọn lọc của nhà Vua hay với rượu mà ông ta đã uống. Bây giờ vấn đề rượu này và
tôi không muốn đưa vào cuộc bàn bạc tối nay, nhưng tôi muốn chỉ ra một vài điều.
Điều gì là sai khi uống rượu của vua? Rượu là thức ăn kiêng, vì vậy rượu không
phải là vấn đề liên quan đến luật ăn uống của Cựu Ước, nhưng có một việc về hạng
người không thoả hiệp khi đến với một tiêu chuẩn bất thường. Và đó là lý do tại
sao tôi đưa ra điểm thứ hai.
Họ
là những người thiết lập tốc độ, họ đề ra khuôn mẫu cho người khác; họ sống
trên vùng cao. Cũng có thể là Đa-ni-ên đã thực hiện lời thề Na-xi-rê hay một lời
thề nguyện như lời thề hứa kiêng trọn hết. Hạng người không thoả hiệp như
Đa-ni-ên đi qua khỏi đám đông; họ qua khỏi đám người thiểu số. Họ đề ra các
tiêu chuẩn cho bản mình trỗi hơn tiêu chuẩn bình thường. Họ sống ở mức cao nhất.
Họ đứng trên đám đông. Họ không chọn cái tốt; mà họ chọn cái tốt nhất. Họ biết
tiết chế nhiều thứ vì họ chọn sống theo mức cam kết trỗi hơn những người còn lại.
Để có một cuộc sống trung tín cầu nguyện hơn những người còn lại và nghiên cứu
sâu sắc về Ngôi Lời hơn những người còn lại. Và bạn có thể minh họa chỉ bởi vấn
đề về rượu nầy mà thôi. Thực vậy, Đa-ni-ên không những từ chối rượu của nhà Vua,
mà ông còn không mang theo bất kỳ bầu da rượu nào của người Do-thái, cho dù là
rượu gì.
Hãy
xem câu 12: "Tôi xin ông hãy thử những kẻ tôi tớ ông trong mười ngày, cho
chúng tôi chỉ ăn rau uống nước". Ông
không muốn một giọt rượu nào cả. Rượu pha với nước rất là phổ biến ở Israel. Mạnh
uống mà gọi rượu không pha là liên kết với hình thức tà giáo và say sưa, nhưng
họ uống rượu trong thời cổ đại vì một số lý do. Một trong số đó là vì nó là thứ
có sẵn nhất rõ ràng là họ đã có trái cây và nó sẽ sản xuất nước ép và họ sẽ uống
thứ nước ép nầy. Nhưng rượu sẽ lên men; họ không có cách nào để đông lạnh nó hoặc
để giữ lạnh để nó không lên men. Và họ sẽ trộn nó với nước. Vì vậy, họ không bị
say nhưng nó cũng hoạt động như thuốc tẩy cho nước, nước trong thời buổi ấy sẽ
chứa vi khuẩn và không có hệ thống vệ sinh của thời hiện đại chúng ta sẽ hiểu
rượu đó vì cớ nó lên men và nội dung cồn sẽ hoạt động như thuốc tẩy và luyện lọc
và nhơn đó làm giảm tiềm năng của bệnh tật. Và thế là hỗn hợp rượu đã được sử dụng
và thích hợp. Thí dụ của dâng thức uống đã được sử dụng trong thờ lạy Đức Chúa
Trời; một nguồn cung cấp rượu được giữ trong Đền Thờ. Việc uống rượu đôi khi được
gắn với việc ca hát như có chép trong Êsai 24:9. Rượu Êsai 55:1-2 là một biểu
tượng của phước hạnh thuộc linh. Vì vậy, có một nơi và thời gian thích hợp để uống
rượu pha sao cho đúng cách. Nhưng nó luôn luôn là một tiềm năng cho điều ác.
Khi bị lạm dụng hoặc không pha trộn. Vì vậy, có một số người tự nguyện hoặc trong
sự kết nối với Lời của Đức Chúa Trời đã chọn không dự phần nào cả và có một số phân
đoạn chỉ ra việc đó.
"Rượu không dành cho bậc vua
chúa". Hãy nhớ, trong Châm ngôn 31, rượu không
dành cho những người cầm quyền, tại sao chứ? Bởi vì bạn có quá nhiều trách nhiệm
không nên để cho suy nghĩ của bạn bị che khuất. Nếu bạn đang ở vị trí lãnh đạo.
Thậm chí trong Tân Ước có nói tới cấp trưởng lão và chấp sự cần phải tránh xa
việc uống rượu. Một số nơi trong Cựu Ước đã cảnh báo các thầy tế lễ về việc uống
rượu đó. Và có những người đã chịu thề Na-xi-rê, đó là mức cao nhất của sự tin
kính thuộc linh, là địa vị cần phải kiêng cử.
Timôthê
đã sống ở mức độ đó và Phao-lô đã bảo ông vì yếu trong người, Timôthê có thể
dùng một ít rượu vì cớ dạ dày của Timôthê, vì nếu ông không bảo thì Timôthê đã không
dùng đến rượu. Timôthê cũng muốn sống ở mức độ tin kính cao hơn tiêu chẩn thông
thường. Mục đích, ấy là luôn sẽ có người chọn mức độ cao nhứt, tốt nhứt, những
người cao quý nhất đạt tới tiêu chuẩn cao nhất. Đa-ni-ên chắc chắn muốn mình phải
biệt riêng ra đối với hạng người háu ăn và say sưa trong xứ Ba-by-lôn. Có một việc
về say sưa, nếu bạn ở trong nhóm say sưa và bạn tỉnh táo, họ sẽ không nhìn biết
việc ấy.
Thậm
chí Đa-ni-ên không muốn liên quan đến việc ấy và vì vậy ông chỉ muốn uống nước
mà thôi. Và đó là phần tốt hơn, phải không? Hạng người cao trọng chắc chắn đã
sa vào quyền lực của sự say sưa; Bên-sát-sa mất đế quốc Ba-by-lôn hoàn toàn vì
ông ta đã ở trong tình trạng say sưa. Alexander Đại Đế đã qua đời ở tuổi 33 trong
trạng thái say rượu. Khi Công tước sắt của Anh Quốc, Công tước Wellington đang đưa
quân đội hành quân trên Bình nguyên Iberia, từ trung tâm hành quân cho ông hay
rằng trước mặt ông là một kho rượu rất lớn của Tây Ban Nha. Ông cho quân đội dừng
lại ở điểm đó, sai một số người đi trước và họ đã thổi bay kho rượu đó. Khi ấy,
ông mới cho hành quân tiếp.
Có người
đã nói lý do Napoléon Bonaparte thua trận tại Waterloo trước Công tước
Wellington chiến thắng là vì đêm trước khi lâm trận ông ngồi quá lâu bên ly rượu
đúng gu của ông và sáng hôm sau ông không tỉnh táo và tâm trí của ông bất ổn.
Khi nước Pháp lâm vào Đệ II Thế Chiến chống lại Hitler, Marshall Bataan đã nói:
"Nước Pháp đã bị
đánh bại vì quân đội Pháp đã say xỉn. Và chính quyền Niche năm 1940 đã nói:
"Lý do cho sự sụp đổ của mặt đạo đức của quân đội Pháp là do rượu". Một
đời sống không thoả hiệp thực sự không nên đùa bên bờ rìa của điều chi là đúng,
song hãy chọn tiêu chuẩn cao nhất quý nhất. Đấy là cách mà Đa-ni-ên đã chọn.
Một
đời sống cam kết không thoả hiệp kết quả trong một sự dạn dĩ không mất cở và một
tiêu chuẩn bất thường thứ ba. Một sự bảo hộ không thể thiếu, một sự bảo vệ
không thể thiếu. Câu 9. Bạn nói được lắm, nếu bạn sống giống như bạn đang ở dưới
nhiều sự bảo hộ của nhiều người. Nhưng từ Đức Chúa Trời, bạn sẽ ở dưới nhiều sự
bảo hộ. Câu 9. Bấy giờ Đức Chúa Trời đã ban cho Đa-ni-ên điều gì chứ? Sự ưu ái
và thương xót bên cạnh vị quan coi sóc nhiều quan chức. Bạn thấy tôi muốn lấy chỗ
đứng không thoả hiệp, có toàn xã hội chống lại tôi và có Chúa ở bên cạnh tôi.
Và đó là mục đích. Chắc chắn điều đó có thể ngửi được ngay cả khi ai nấy đều bất
đồng với những điều bạn tin quyết, họ ngưỡng mộ bạn khi bạn được họ nắm lấy,
nhưng còn hơn thế nữa, Đức Chúa Trời đang ở bên cạnh bạn.
Ấy chẳng
phải tính ngay thẳng của bạn trở thành phí bảo hiểm có giá trị và họ sẽ đổi ra tốt
đối với bạn vì bạn có tính ngay thẳng đâu, vấn đề là sự bạn vâng phục đối với Đức
Chúa Trời, bạn lấy lý do cao nhứt và làm đẹp lòng Đức Chúa Trời và Đức Chúa Trời
sẽ ưu ái cho. Rõ ràng Đa-ni-ên đã có một nhân cách giàu ơn và dễ mến hoặc họ sẽ
không chọn lấy ông. Nhưng lý do mà nhân vật hoạn quan trưởng của hoạn quan đối
xử đàng hoàng với Đa-ni-ên là vì Đức Chúa Trời khiến cho Đa-ni-ên được ưu ái trong
mắt ông ta. Đức Chúa Trời khiến ông ta ưa thích Đa-ni-ên. Há chẳng tuyệt vời sao,
khi nhìn biết rằng Đức Chúa Trời đang vận hành trong đời sống của những người không
tin?
Nầy,
nếu tôi lấy một chỗ đứng vững vàng, điều gì sẽ xảy ra với tôi khi làm việc chứ?
Hãy thử xem rồi thấy. Hãy đặt mình vào tay Chúa. Bạn không cần phải thỏa hiệp để
cứu lấy mình. Tôi luôn nghĩ đến David, David đã trốn trong hang đá A-đu-lam; tôi
muốn nói đây là David. Bạn biết đấy, vị vua vĩ đại nhất trên thế gian, từ nhận
định thuộc linh chắc chắn và với sức mạnh và ảnh hưởng to lớn. Ông đã ở trong
hang A-đu-lam, ông đang làm gì ở đó? Ông đang hờn dỗi; ông nhiều sự hờn dỗi lắm.
Ông là loại thanh niên hay sầu muộn. Và tại sao ông lại hờn dỗi chứ? Vì ông đã
trở về từ Ballista và ông đã làm một việc ngu xuẩn. Ông bước vào cung điện của
người Phi-li-tin rồi khởi sự lo sợ mất mạng sống mình. Và bạn biết đấy, ông đã
làm gì chứ? Ông đã giả vờ điên khùng, giống như ông là một kẻ điên vậy. Và ông bắt
đầu sôi bọt mép. Chảy nước dãi và rên rỉ trên bộ râu là một dấu hiệu cho thấy sự
thiếu tôn trọng rất lớn ở Trung Đông. Nếu bạn có râu, về cơ bản bạn sẽ không để
cho nước dãi chảy xuống râu của bạn đâu.
Râu
là một dấu hiệu của đàn ông và danh dự phải được giữ sao cho đúng cách. David để
cho nước dãi chảy xuống râu của ông và khi ấy ông khởi sự cào xước các bức tường
giống như thể ông không còn hoàn toàn tỉnh táo nữa. Trước sự việc đó, nhà Vua nói
rằng chúng tôi có đủ thứ ngốc nghếch ở xung quanh, phải thoát cái thứ này đi. Rồi
họ đuổi ông đi. Và thực sự việc ấy có hiệu lực. Mạng sống ông vẫn còn đấy,
nhưng khi ông đến hang A-đu-lam, ông nhận ra tình trạng ngu dốt của mình và sự ông
bôi nhọ nhân phẩm của chính ông và sự ông thất bại không tin nơi Đức Chúa Trời
khi ấy, đó là một sự sỉ nhục chống lại Đức Chúa Trời, Ngài sẽ giải cứu và có lẽ
với một phương thức vinh hiển tuyệt vời không cần ông đóng vai kẻ dại nữa là.
Đức
Chúa Trời đã đặt trong tấm lòng của con người phải đối xử tử tế với David. Tôi
phải nói là Đức Chúa Trời đẵ đặt việc phải đối xử tử tế vào tấm lòng của người
ta đối với Đa-ni-ên. Đức Chúa Trời luôn luôn đảm nhận sự bảo hộ cho người nào đứng
vững không thoả hiệp cho lẽ thật của Ngài. Và khi bạn làm điều đó, bạn chỉ cần đem
bản thân mình đặt dưới sự bảo hộ thiêng liêng kia. Có khi người ta nói: "Bạn không lo sao khi bạn dám đứng
trên một thứ gì đó?" "Không, tôi lo khi tôi không đứng trên việc ấy". "Bạn không lo sao, khi bạn làm
chứng dạn dĩ về việc ấy chứ?" "Không, tôi lo khi tôi không dám
làm chứng kìa".
"Bạn không sợ người ta nghĩ gì sao?" "Có gì đâu, cái điều tôi lo sợ
là Đức Chúa Trời sẽ nghĩ gì kìa".
Đó mới là vấn đề. Châm ngôn
16:7 chép “Khi
tánh hạnh của người nào đẹp lòng Đức Giê-hô-va, thì Ngài cũng khiến các thù
nghịch người ở hòa thuận với người”. Tấm
lòng của con người đều nằm trong bàn tay của Đức Chúa Trời. Người ấy sống chơn
thật với Đức Chúa Trời, sẽ không hề thỏa hiệp để kiếm được một việc với con người
và mất một việc với Đức Chúa Trời; cơ bản là Ngài kiểm soát con người. Hãy suy
nghĩ về Giô-sép và Đa-ni-ên, họ giống nhau, có phải không? Cả hai người đều dấy
lên ở nước ngoài với cùng đẳng cấp Thủ tướng Chính phủ do Đức Chúa Trời ban hiến
tài năng cho họ theo cách riêng. Cả hai người đều có được những năng lực phi
thường về mặt tiên tri, góp phần giúp cho họ thăng tiến ở những địa vị cao
trong chính quyền. Cả hai người đều có khả năng làm cho những người giả vờ mình
có sự hiểu biết siêu nhiên về Đức Chúa Trời phải mất cở. Giống như ở Ba-by-lôn,
ở Ai-cập, hai triều đình nầy đầy dẫy những kẻ bịp bợm, cả hai: Đa-ni-ên và
Giôsép đều ở dưới quyền bảo hộ của Đức Chúa Trời, được buông tha, được dấy lên
và được thăng tiến.
Còn
Đa-ni-ên, bạn thấy đấy, cuộc đời của Đa-ni-ên phác hoạ những gì Đức Chúa Trời sẽ
làm cho người có lòng trung tín, Ngài ban ơn cho ông. Rồi tiếp đến ở câu 10: "Người làm đầu hoạn quan bảo Đa-ni-ên rằng: Ta
sợ vua, là chủ ta, đã chỉ định đồ ăn đồ uống của các ngươi. Lẽ nào vua sẽ thấy
mặt mày các ngươi tiều tụy hơn những kẻ trai trẻ khác đồng tuổi với các ngươi,
và các ngươi nộp đầu ta cho vua sao?" Ông
ta nói: “Tôi sẽ gặp phải
nan đề, tôi thực sự muốn giúp mấy anh, và tôi muốn làm theo ý của mấy anh,
nhưng cái đầu của tôi sẽ bị bêu lên vì việc nầy”.
Và nếu chúng ta tiếp tục tiến trình này ở đây và nhà vua xuống kiểm tra mấy
anh, rồi trông mấy anh còi cọc và xanh xao, ốm nhom ốm nhách, đầu tôi chắc bị
bêu ngay. Đặc biệt khi ông ta nói: "Việc
gì sẽ xảy ra khi tôi nói rõ là họ không muốn ăn những gì vua cung cấp, họ không
uống những gì vua cung cấp và tôi đã cho họ thoả ước muốn của họ".
Sự
phản kháng lệnh lạc của nhà vua có thể dẫn đến cái chết của tôi. Và tôi không
thực sự muốn mất đầu trước các đao phủ của nhà vua chỉ đơn giản vì ích của mấy
anh. Ông ta đã gặp phải tình trạng chẳng đặng đừng; ông ta thực sự có lòng
thương xót, điều nầy chép trong câu 9. Và ông ta rất ngưỡng mộ các thanh niên nầy.
Và ông ta cũng rất lo cho sự tồn tại của chính mình. Ông ta sợ rằng những gì họ
yêu cầu sẽ dẫn đến tình trạng sức khoẻ kém. Vì vậy, mọi thứ rơi vào chỗ chần chừ
trong một phút ở đây. Tuy nhiên Đa-ni-ên không bỏ cuộc. Sự bền đỗ và đấy là đặc
điểm thứ tư. Một phẩm chất thứ tư. Chúng ta có thể nói một đời sống không thoả
hiệp có một sự bền đỗ không chi ngăn trở được. Một sự bền đỗ không chi ngăn trở
được.
Đa-ni-ên
có thể quay trở lại và nói với các bạn của mình, các bạn biết đấy tôi nghĩ chúng
ta đưa cuộc thương lượng nầy ra xa đến mức nào chúng ta có thể đẩy nó. Và các bạn
biết ít nhất mình phải ăn một quả trứng đấy. Tôi muốn nói, tôi nghĩ, nếu chúng
ta cố gắng đẩy thương lượng này xa thêm chút nữa, chúng ta sẽ gặp rắc rối
nghiêm trọng ở đây. Và Át-bê-na, người bạn tốt của chúng ta, người đã chìu nhiều
thứ cho chúng ta trong việc nầy, sẽ gặp rắc rối lớn. Nhưng đấy chẳng phải là
cách thức trong một đời sống không thoả hiệp. Không có xu hướng xấu xa nào ở
đây. Không có tinh thần nào vui vẻ ở đây, chẳng có một sự phản kháng hay loạn
nghịch nào ở đây nơi Đa-ni-ên. Hãy xem câu 11: "Đa-ni-ên bèn nói với Ham-mên-xa mà người làm
đầu hoạn quan đã khiến coi sóc Đa-ni-ên, Ha-na-nia, Mi-sa-ên và A-xa-ria". Làm
ơn đi, tôi thích như thế, làm ơn đi.
Đây
là người quản gia mà Át-bê-na đã chỉ định. Và Đa-ni-ên cũng không hề nản lòng
trong những gì ông cũng đã cam kết, ông đến gần viên quản gia nầy rồi nói: "Ông ơi, làm ơn đi, chỉ thử
chúng tôi thôi mà". Tôi thích sự bền đỗ của ông, nếu ông
bỏ cuộc lần thứ nhứt; bạn không có nhân vật Đa-ni-ên đâu. Bạn thấy đấy, bạn chỉ
quay trở lại nơi chúng ta đã bắt đầu, ai nấy đều có phần của mình, có phải
không? Cái giá. Và cái giá nằm ở bất cứ thời điểm nào bạn thỏa hiệp niềm tin của
mình. Đa-ni-ên chẳng có cái giá nào hết, vì vậy sự tồn tại của ông chẳng có một
kết thúc nào cả.
Vì
vậy, ông đến gặp nhân vật ít quan trọng này. Không tìm kiếm cái cớ nào hết. Và ông
nói với ông ta: "Nào,
chỉ làm việc nầy trong 10 ngày thôi. Chỉ ông làm việc với chúng tôi thôi, đừng
hối thúc Át-bê-na về việc này, chúng ta đừng cho Vua hay việc nầy. Chúng tôi biết
Át-bê-na thương chúng tôi, ngưỡng mộ chúng tôi và chỉn ông cùng bốn người chúng
tôi cùng làm việc ít nữa là trong 10 ngày, rồi hãy xem việc sẽ ra thể nào".
Bây giờ, hãy nhớ đây là một chương trình ba năm. Vì vậy, ở đây chúng ta thấy sự
bền đỗ của một đời sống không thoả hiệp, dạn dĩ không mất cở, tiêu chuẩn bất
thường sự bảo hộ siêu nhiên và sự bền đỗ không chi ngăn trở.
Và
đây là chìa khóa cho mọi sự, số 5. Một đức tin không vấy bẩn. Điều nầy rất là
tuyệt vời. Làm ơn thử các tôi tớ ông trong 10 ngày. Cứ cho chúng tôi ăn rau và
uống nước thôi. Chúng tôi cần nước và chế độ ăn kiêng. Bạn nói tại sao chứ?
Vâng vì các thứ rau sẽ phù hợp với luật chế độ ăn kiêng của Cựu Ước. Có một số
loại thịt nhất định ăn được, một số thịt nhất định không ăn được, một số loài
chim ăn được, một số loài chim không ăn được, một số hải sản ăn được, một số hải
sản không ăn được. Và thay vì tìm cách qua mặt đủ thứ, ông nói: "Hãy cho chúng tôi ăn rau, mọi
thứ đấy là ăn kiêng, và nước".
Và rồi
câu 13: “Sau
đó, sẽ nhìn nét mặt chúng tôi với nét mặt những kẻ trai trẻ ăn đồ ăn ngon của
vua; rồi ông sẽ làm cho những kẻ tôi tớ ông theo như điều ông đã thấy”. Bấy
giờ, cũng đã có các thanh niên khác trong chương trình này. Các thanh niên khác,
nếu họ đến từ Israel và đã thoả hiệp, nếu họ đến từ một quốc gia khác hoặc thậm
chí là người Canh-đê, sẽ tham gia chế độ ăn uống của nhà Vua. Ông nói: "Chỉ cần so sánh chúng tôi với
những người còn lại kia".
Có
một việc rất hay về điều này. Và nếu tôi có thể cung ứng cho bạn một nguyên tắc
thuộc linh, thì đó là nguyên tắc này. Tội lỗi tạo ra nghi ngờ. Tội lỗi tạo ra
nghi ngờ, sợ hãi, thắc mắc, do dự. Sự công bình tạo ra sự tin cậy và an ninh.
Và theo một ý nghĩa, Đa-ni-ên đang nói: "Tôi đặt cuộc đời mình lên hàng đầu bởi vì tôi tin rằng
nếu tôi vâng theo Đức Chúa Trời, Ngài sẽ tôn trọng sự vâng phục đó".
Bây giờ đừng đi quá mục đích ở đây và hãy kết luận rằng nếu bạn chỉ ăn rau và uống
nước, bạn sẽ khỏe mạnh hơn bất cứ ai khác và bạn sẽ được phước bởi Đức Chúa Trời.
Đấy chưa phải là mục tiêu.
Mục
tiêu là Đa-ni-ên nói: nếu tôi vâng theo Đức Chúa Trời và không vi phạm các luật
lệ và nắm lấy địa vị thuộc linh cao nhất, tôi tin Đức Chúa Trời sẽ tôn trọng việc
ấy. Đó là đức tin của ông. Và người nào có loại đức tin đó, họ có đức tin ấy từ
một điểm thuận lợi của sự thanh sạch. Bởi vì nếu có tội lỗi trong đời sống của
Đa-ni-ên, ông sẽ không bao giờ có sự tin cậy và và dạn dĩ đặt mình vào vị trí
đó. Ông sẽ có một sự lo lắng rất bình thường nếu như ông vượt xa điều đã dự trù
cho mình, Đức Chúa Trời sẽ nhìn thấy mọi sự quá phạm trong đời sống của ông. Vì
vậy, đây là một bằng chứng cho sự thánh khiết của ông, cho sự thanh sạch của
ông.
Bạn
có thể sinh hoạt trong bất kỳ thử nghiệm nào với sự tin cậy hoàn toàn khi bạn
biết rằng tấm lòng của bạn là thanh sạch. Đó là một điểm rất quan trọng; tôi ước
chúng ta có thời gian để khai triển thêm điều nầy. Có sự can đảm và sự dạn dĩ lớn
lao từ chỗ thanh sạch, ngay cả một ý thức bất khả chiến bại bởi vì bạn tin Đức
Chúa Trời sẽ tôn trọng và bảo hộ người nào sống trung tín. Vì vậy, họ dám mạo
hiểm bước vào cuộc thử nghiệm. Bởi vì họ tin Đức Chúa Trời sẽ tôn trọng họ bởi
vì tấm lòng của họ là thanh sạch. Khi hết thảy họ có thể phải ngã chết nếu thử
nghiệm thất bại. Và Át-bê-na sẽ chết mất và viên quản gia sẽ ngã chết và hết thảy
họ sẽ bị hư mất đi. Nhưng Đa-ni-ên là một người của đức tin và nơi cư trú của đức
tin ông là ở trong một tấm lòng thanh sạch. Và ông tin Đức Chúa Trời sẽ tôn trọng
sự thanh sạch của ông.
Đồng thời, hãy chú ý một
chút về rau kia, trong trường hợp có người tự hỏi, từ Zarah tiếng
Hy-bá-lai có nghĩa là gieo hay trồng từ hạt, đồ ăn thông thường. Đây là món ăn
của người nghèo. Không có thịt, không có món gì ngon. Và rồi ông nói rằng vào
cuối 10 ngày, bạn hãy nhìn xem coi ai là người trông khỏe mạnh hơn. Vì vậy, đức
tin không thoả hiệp của họ đã ném họ vào điểm số sáu, một thử nghiệm bất thường.
Một thử nghiệm bất thường, câu 14: "Ham-mên-xa nhậm lời họ xin, và thử họ trong
mười ngày”. Mọi sự cam kết phải được xét thử, điều đó
là hợp pháp. Ông ta phải đưa lén vào một số loại rau và bằng cách nào đó xử lý
các thứ đồ ăn khác được đưa xuống cung ứng cho họ.
Rồi
Kinh Thánh chép ở câu 15 như sau: "Mười ngày ấy qua rồi, thấy mặt họ lại có vẻ
xinh tươi đầy đặn hơn mọi kẻ trai trẻ khác đã ăn đồ ngon vua ăn". Dễ
nhìn hơn và đầy đặn hơn, bây giờ chúng ta đừng chú trọng quá nhiều vào chỗ đầy
đặn nầy. Bạn đang nghĩ đến bốn thanh thiếu niên tròn trĩnh ra, không. Thuật ngữ
này liên quan đến việc đầy đủ, khỏe mạnh. Nó có liên quan đến việc được ăn no
nê và tỉ lệ thích hợp, mới có được sức khoẻ như thế. Họ không chịu khổ từ thức
ăn nguội lạnh. Họ được hưởng lợi, tại sao chứ? Bởi vì các thứ rau thì tốt hơn
các thứ khác chăng? Không đâu, vì sự can thiệp trực tiếp của Đức Chúa Trời nên
mới có được sự nầy.
Đừng
xây đi và nghĩ rằng bạn sẽ tươi tốt và cơ bắp hơn nếu bạn ăn rau trong 10 ngày
và không uống gì cả trừ ra nước. Tôi không muốn nghe liệu bạn có như thế hay
không, đấy chẳng phải là mục đích. Mẹ tôi luôn nói cho tôi biết rằng bạn cần một
ít protein (đạm). Tôi không biện hộ
chế độ ăn kiêng nhất định; mục đích là Đức Chúa Trời tôn trọng mọi hạn chế của
họ. Và đã làm việc trong đời sống thuộc thể của họ để khiến cho họ ra tươi tắn
và đầy đặn hơn.
Và
rồi câu 16: "Vậy,
Ham-nên-xa cất phần đồ ăn ngon và rượu của họ, và cho họ ăn rau”. Có lẽ ông ta thích điều đó, bởi vì anh ta tiếp
tục lấy thức ăn mà nhà Vua đang gửi xuống cho họ rồi ăn nó và cứ cung ứng rau cho
họ, là các thứ rau đã được gửi xuống cho ông ta. Họ đã thắng trận đánh; Họ
tránh được nếp sống kia. Nỗ lực nắn đúc họ vào nếp sống của người Canh-đê. Họ đã
đậu qua thử nghiệm bất thường mà hết thảy đức tin sẽ bị thử nghiệm. Hãy chiếm lấy
một chỗ đứng không thoả hiệp trên Lời của Đức Chúa Trời dẫn họ đến với một sự dạn
dĩ không mất cở trước một tiêu chuẩn bất thường và một sự bảo hộ siêu nhiên, một
sự bền đỗ không chi ngăn trở được, một đức tin không bị vấy bẩn, một thử nghiệm
bất thường.
Và
rồi ở phần số 7, một phước hạnh không lường được. Câu nầy hiển nhiên là phần kết
của chương, câu 17: “Vả, Đức Chúa Trời ban cho bốn người trai trẻ đó được thông biết
tỏ sáng trong mọi thứ học thức và sự khôn ngoan. Đa-ni-ên cũng biết được mọi sự
hiện thấy và chiêm bao”. Bạn
đang nói ở đây về một việc gì đó đó vượt quá hệ thống giáo dục của người
Canh-đê. Không những ông học được mọi thứ của người Canh-đê, mà còn thêm vào
các sự khác nữa, chúng ta phải quay trở lại câu 4 từ các thời buổi Do-thái của
ông, điều này cho chúng ta biết rằng những người 14 và 15 tuổi có thể được giáo
dục cao hơn nhiều so với chúng ta tưởng. Bấy giờ không những ông đã được giáo dục
trong sự sự khôn ngoan của người Do-thái, mà còn mọi sự khôn ngoan của người
Canh-đê và hơn nữa ông đã được ban cho sự khôn ngoan thiêng liêng nữa. Giờ đây,
ông nhận được các khải thị và chiêm bao đến Đức Chúa Trời và chúng tôi đưa bạn
trở lại cùng một mục đích ở đây. Mọi thành tựu này đều là quà tặng đến từ Đức
Chúa Trời cho một đời sống không thoả hiệp.
Thực
sự tôi cảm thấy rằng cách duy nhất để đạt được sự hiểu biết và cách duy nhất để
đạt được sự khôn ngoan và mọi sự học hỏi cùng sự hiểu biết thực sự về Kinh Thánh
là phải đi qua con đường sống không thoả hiệp. Ba-by-lôn là trung tâm của tri
thức, được cho là trung tâm của khoa học tiên tiến, luật pháp của người Mê-đi
Ba-tư đã có ở đó, sự khôn ngoan của người Canh-đê, các thư viện lớn của thế giới,
học bổng đã có ở đó và các thanh thiếu niên nầy đã tốt nghiệp từ luật lệ cơ bản
đến toàn phần nếu bạn muốn. Cảm tạ ơn Chúa. Đức Chúa Trời một cách siêu nhiên đã
giúp cho họ tiếp thu hết mọi thứ và rồi hơn thế nữa, Đức Chúa Trời còn ban cho Đa-ni-ên
khả năng đọc được những khải thị và chiêm bao.
Tất nhiên, điều này chuẩn bị
cho Đa-ni-ên về những lời tiên tri được trình bày trong sách này. Đúng là một
ơn phước rất lớn. Họ sẽ biết những gì họ cần phải biết; họ sẽ có sự khôn ngoan đến
từ Đức Chúa Trời. Câu 18 chép: “Đến kỳ vua định để đem họ đến, thì người làm đầu hoạn quan dắt
họ đến trước mặt Nê-bu-cát-nết-sa”. Và
họ được nhà Vua kiểm tra và có lẽ họ đã đưa ra một số đánh giá bởi các quan trợ
lý, những người đã đưa họ qua kỳ định nầy và bởi Át-bê-na người phụ trách kỳ định
đó. Kinh Thánh chép rằng "đến kỳ vua định để đem họ đến".
Nói cách khác, họ đã bước vào và đứng trước mặt nhà Vua. Đây là kỳ tốt nghiệp
và đây là những người ưu tú. Câu 19 chép: "Vua nói chuyện cùng họ; và trong hết thảy bọn
họ, không thấy ai bằng Đa-ni-ên, Ha-na-nia, Mi-sa-ên, và A-sa-ria; vậy họ được
đứng chầu trước mặt vua”.
Được
phước với sự khôn ngoan và được phước với đặc ân trong một xã hội ngoại giáo. Đâu
là con đường dẫn đến một địa vị được ơn trong một xã hội ngoại giáo chứ? Đó là
con đường của một đời sống không thoả hiệp, đó là con đường của đức hạnh, sự
thánh khiết, sự tin kính, sự thanh sạch. Câu 20: "Vả, khi vua hỏi họ những câu hỏi về mọi sự
khôn ngoan sáng suốt, thì thấy họ giỏi hơn gấp mười những đồng bóng và thuật sĩ
trong cả nước mình”, tôi
thích chỗ này: "hơn gấp 10 những đồng bóng và
thuật sĩ trong cả nước mình”. Hơn gấp 10 kẻ nhất hạng.
Tại sao chứ? Bởi vì họ đã học của người Canh-đê sao? Không, nhiều người khác đã
tiếp thu từ người Canh-đê, nhưng họ đã có Đức Chúa Trời là Đấng đã ban sự khôn
ngoan cho họ. Họ đã có sự khôn ngoan của Cựu Ước và họ đã có sự khôn ngoan mà Đức
Chúa Trời đã ban cho bởi sự mặc khải trực tiếp.
Làm
thế nào để bạn vươn tới được một địa vị quan trọng? Đức Chúa Trời sẽ đặt bạn vào
địa vị cao nhất mà Ngài dành cho bạn khi bạn là người không hề thoả hiệp. Bạn
không phải tìm phương thức của bạn để đến được đó qua sự thỏa hiệp. Tôi cho là phải
sống tuyệt đối trung thực và với tới chỗ cao kỳ của Kinh Thánh, tránh những cái
bẩn thỉu của chính trị, đấy là lý do tại sao tôi ghét chính trị. Bởi vì chính
trị là một nghề đầy thủ đoạn chuyên thoả hiệp. Và bạn sẽ đạt tới đó vì bạn bán
linh hồn mình bất cứ vị trí nào bạn cần để đạt được những gì bạn muốn và những
gì bạn kết thúc với ở đỉnh cao của tiến trình này là một bó toàn bộ những thỏa
hiệp.
Đó
là mánh khoé của thỏa hiệp. Nhưng nếu bạn muốn ở nơi Chúa muốn bạn ở, bạn không
thỏa hiệp và để cho Ngài nhấc bạn lên cao. Mục đích sau cùng tôi muốn đưa ra về
những thanh niên này đặc biệt là Đa-ni-ên, ấy là ông có ảnh hưởng không giới hạn.
Một đời sống không thoả hiệp, ảnh hưởng không giới hạn, câu 21: "Vậy, Đa-ni-ên cứ ở đó cho đến năm đầu đời vua
Si-ru". 70 năm và có lẽ sau cùng Đa-ni-ên
được bổ nhiệm làm Thủ tướng, và thành tựu to lớn sau cùng của ông là thương thuyết
việc thả tù nhân. Vì vậy, họ có thể trở về xứ của họ. Khi bạn đọc Exơra 1:1-4
nói tới việc họ quay trở lại xứ của họ, bạn cảm thấy Đa-ni-ên đang đứng ở cái
phông phía sau.
Giờ
đây, có rất nhiều Cơ đốc nhân ngày nay họ muốn có nhiều Cơ đốc nhân ở nhiều vị
trí nổi bật và tôi nghĩ phần lớn trong số họ đều nghĩ phải đưa họ đến đó, thì sẽ
có sự thỏa hiệp. Và tôi muốn nhận định ngược lại. Và cứ nói phải đưa họ đến đó,
sẽ có một sự tin kính không thoả hiệp và một mục đích thiêng liêng nơi phần của
Đức Chúa Trời để đặt họ ở đó. Nhưng thách thức thực sự ngày nay có thể không
phù hợp với mục đích của Đức Chúa Trời nhiều như nó phù hợp với việc tìm kiếm một
người không biết đến thoả hiệp.
Một
đời sống không thoả hiệp với sự dạn dĩ không mất cở kêu gọi chúng ta đến với một
tiêu chuẩn bất thường nương vào vào một sự bảo vệ siêu nhiên được xây dựng trên
một đức tin không bị vấy bẩn có thể đối diện với sự thử nghiệm bất thường với sự
bền dỗ không chi ngăn trở, kết quả trong ơn phước không lường được và ảnh hưởng
không giới hạn. Và tôi cho rằng chúng ta có thể nói với sự tóm tắt: chúng ta
quyết định không thỏa hiệp và để kết quả lại cho Đức Chúa Trời. Có đúng không?
Và nguyện Ngài đặt bạn vào vị trí mà Ngài mong muốn. Vị trí bạn không hề kiếm
được bằng cách cố gắng, bằng cách vận động, hoặc bằng cách thỏa hiệp, Đức Chúa
Trời sẽ cho bạn vì bạn không thỏa hiệp.
Và đó là vị trí cao nhất trong
mục đích thánh khiết của Ngài dành cho đời sống của bạn. Chúng ta hãy cầu nguyện.
Lạy Cha, cảm tạ Ngài vì
phần nghiên cứu tối nay theo như Ngài đã mở ra cho chúng con một câu chuyện tuyệt
vời về Đa-ni-ên và một khuôn mẫu ông ấy có cho chúng con. Một người không có
giá cả nào hết, một người không thể mua chuộc được. Và ông đã đến một địa vị nó
dẫn ông đến sống trong hang sư tử và mấy người bạn của ông phải bị bỏ vào trong
lò lửa hực và thậm chí khi ấy chẳng có một sự thoả hiệp nào hết. Lạy Chúa,
chúng con chắc chắn mang lấy danh của xã hội và hết thảy chúng con đều có cấp độ
này hay cấp độ khác cảm thấy ảnh hưởng giáo dục của xã hội, nhưng nguyện Chúa bảo
vệ chúng con tránh khỏi nếp sống ấy.
Xin giữ chúng con không biết đến thoả
hiệp, thanh sạch, trung tín, trung thành với lẽ thật và với Ngài là Đức Chúa Trời
của chân lý. Và với Đấng Christ là lẽ thật sống động. Và với Thánh Linh của lẽ
thật. Và khi chúng con sống loại đời sống không biết đến thoả hiệp ấy, nguyện
Ngài nhấc chúng con lên ở bất cứ nhiệm vụ nào và phần việc nào sẽ đem lại cho
Ngài sự vinh hiển vì cớ Đấng Christ, Amen.
Nhận xét
Đăng nhận xét