Sự Dấy Lên Và Sụp Đổ Của Thế Gian - Phần 2
Sự Dấy Lên Và Sụp Đổ Của Thế Gian, Phần 2
Kinh Thánh: Đaniên 2:41-43
Tối nay chúng ta trở lại với phần nghiên cứu về Đa-ni-ên.
Hãy lấy Kinh thánh ra nếu bạn muốn và nếu bạn chưa có quyển Kinh Thánh của
riêng mình, bạn có thể lấy một quyển từ hàng ghế kia. Bạn có thể đặt nó trở lại
khi buổi thờ phượng đã xong, và cũng để cho người khác vào tuần tới. Đôi khi,
tôi không nói điều đó nhưng dù sao, nếu bạn cần, thì hãy lấy nó, hãy tin tôi đi.
Nhưng chúng ta đang nhìn vào Đa-ni-ên 2. Đa-ni-ên là một trong đại tiên tri của
Cựu Ước. Ông đã nói tiên tri 600 năm trước sự Giáng Sinh của Đấng Christ. Con người
cao trọng của Đức Chúa Trời ở độ tuổi thanh thiếu niên của mình.
Như chúng ta đã biết về Đa-ni-ên, khi ông qua Ba-by-lôn
và ông bắt đầu được Đức Chúa Trời sử dụng để tỏ ra chương trình của các thời đại,
lịch sử nhân loại đến sự hoàn hảo của nó trong vương quốc của Đấng Christ, ông
chỉ là một thanh thiếu niên nhưng là một nhân vật quan trọng lúc bấy giờ. Vì vậy,
chúng ta một lần nữa lắng nghe lời tiên tri đầu tiên và có lẽ là lời tiên tri đồ
sộ nhất trong các lời tiên tri ở sách Đaniên hay trong Cựu Ước, lời tiên tri ở
chương 2.
Giống như một bối cảnh dành cho cái nhìn của chúng ta
về lời tiên tri quan trọng này, cho phép tôi khởi sự bằng cách nhắc tới một trải
nghiệm mà tôi đã có trong tuần này. Tôi có cơ hội nghe Tiến sĩ Charles Malik
rao giảng. Tiến sĩ Malik là một người Lebanon bản xứ. Ông lớn lên trong Hội
thánh Chính thống Đông phương ở giữa một thế giới Hồi giáo. Ông là một trong những
người sáng lập Bản Tuyên ngôn Thế Giới về Nhân Quyền của Liên Hiệp Quốc vào năm
1948. Ông là đại sứ của nước ông tại Hoa Kỳ và tại Liên hợp quốc. Tại Liên hiệp
quốc, Tiến sĩ Malik đã từng làm Chủ tịch Hội đồng và Chủ tịch Hội đồng bảo an.
Ông tốt nghiệp Đại học Harvard, ở đây ông có bằng thạc sĩ và tiến sĩ và ông là
một giáo sư thỉnh giảng tại Đại học Harvard cũng như là giáo sư thường trú tại
Đại học Hoa Kỳ ở Beirut.
Và Tiến sĩ Malik đã cố gắng cung ứng cho chúng ta một
phân tích về thế giới và cách mà ông nhận thức về thế giới. Thực vậy, ông nói rằng
thế giới đang trên bờ vực của thảm họa. Đó không phải là những lời chính xác của
ông nhưng thực vậy, đó là tổng kết những gì ông đã nói. Và trừ phi một số điều
khá ấn tượng khả thi làm thay đổi, chúng ta đang bước vào thời kỳ hỗn loạn
trong lịch sử của chúng ta. Ông đã đưa ra một danh sách khá dài các vấn đề cốt
yếu mà Mỹ và thế giới phương Tây phải đối mặt. Và do đó không những Mỹ và thế
giới phương Tây, mà còn vì chúng ta là ảnh hưởng cho cả thế giới, ông nhìn thấy
cả thế giới bị ảnh hưởng bởi những điều này.
Cho phép tôi cung ứng cho bạn sáu trong những việc mà
ông nhắc tới. (1) là cuộc chạy đua vũ trang hạt nhân. Tiến sĩ Malik nói rằng
ông cho điều này là sự cân bằng của khủng bố. Và có lẽ Nga hiện đang có lợi thế
6-1 đối với Hoa Kỳ về vũ khí hạt nhân. Tiến sĩ Malik nói rằng cuộc thương thuyết
SALT, các cuộc thảo luận về hạn chế vũ khí chiến lược là những sự kiện quan trọng
nhất kể từ khi – tôi nghĩ rằng ông đã nói theo cách này: đây là việc quan trọng
nhất xảy ra cho thế giới kể từ khi thiên sứ ban ra lời tuyên bố sự Giáng Sinh của
Đấng Christ cho Mary biết.
Và tôi khá lấy làm ngạc nhiên bởi điều thẳng thắn đó.
Và ông tiếp tục nói lý do tại sao đây là những thời điểm rất quan trọng và lý
do để các cuộc chạy đua vũ trang trở nên quan trọng là vì nó có tiềm năng chấm
dứt toàn bộ lịch sử thế giới. Người sai lầm nhấn nút phải, hết thảy chúng ta đều
biến mất. Và tất nhiên, theo quan điểm của ông, phương Tây đáng buồn đứng ở
đàng sau cuộc chạy đua vũ trang và chúng ta đang đứng trước nguy cơ tiềm ẩn thảm
hoạ hạt nhân.
(2), ông nói rằng vấn đề lớn thứ hai đối mặt với Hoa
Kỳ và thế giới phương Tây và toàn thế giới là kết quả là sự căng thẳng của liên
minh phương Tây. Ông nói Mỹ đã không đúng mức trong việc duy trì các đồng minh
châu Âu của nó. Và từng chút một, ông nhìn thấy nước Nga đang lôi kéo các đồng
minh Mỹ ở châu Âu hầu cho châu Âu ngày càng có xu hướng lắng nghe Nga hơn là
Hoa Kỳ. Chúng ta có một cấp độ cam kết tương đối thấp giữa chúng ta và các đồng
minh mà chúng ta từng có một mối quan hệ chặt chẽ với ở châu Âu. Và ông cảm thấy
rằng điều đó chỉ khiến cho toàn bộ sức mạnh của Nga gần hơn và gần gũi hơn với
thế giới.
(3), ông nói, chúng ta đang đối mặt với nan đề, điều
mà ông gọi là sự rút lui vĩnh viễn. Ông nói rằng Mỹ đã liên tục rút lui khỏi sự
đối đầu với những kẻ thù đầy hứa hẹn của mình cho đến khi nước Mỹ đứng trước mặt
thế giới với một tư thế yếu ớt. Chúng ta không có bộ mặt, và bộ mặt đó trên
Newsweek tuần này, có phải không? Có phải Mỹ mất đi bộ mặt của nó rồi không?
(4), ông nói, một nan đề chính khác ở Mỹ là sự căng
thẳng của chúng ta về tiền bạc và máy móc. Ông nói rằng chúng ta thờ lạy những
thần tượng do chính tay chúng ta làm ra giống như họ đã làm trong thời Cựu Ước,
chỉ những thần tượng được làm bằng tay của chúng ta mới là sản phẩm. Chúng ta
thờ lạy vị thần cơ khí hoá vĩ đại. Chúng ta thờ lạy vị thần tiến bộ. Chúng ta
thờ lạy vị thần công nghệ. Chúng ta thờ lạy vị thần hiện đại hoá. Chúng ta thờ lạy
các sản phẩm. Và ông nói, trong suốt lịch sử nước Mỹ ở các năm gần đây, chúng
ta đã tìm cách mua lấy tình hữu nghị trên khắp thế giới, và mua mối quan hệ bằng
tiền bạc và máy móc vì đó là thần của chúng ta mà không cam kết với bất kỳ cộng
đồng tâm linh nào mà ông nói đến. Và ông muốn nói bằng một mối quan tâm yêu
thương đối với mọi người.
Ông nói thời gian duy nhất trên xứ sở ngoại bang bạn
thấy Mỹ đang chia sẻ cộng đồng tâm linh với một nước ngoài nằm ở trọng tâm của
một số giáo sĩ mù mờ. Đối với hầu hết các nơi, chúng ta đã cố gắng mua hết thảy
họ với tiền bạc và máy móc.
(5), ông nói tới nan đề khác, và có lẽ trong tâm trí
của ông, nan đề số một đối mặt với thế giới ngày nay là hệ thống đại học đường
Tây phương. Ông nói hệ thống đại học đường Tây phương là một nan đề gây tàn phá
trên thế giới vì – ông đưa ra lời phát biểu nầy – tất cả các nhà hoạch định
chính sách của thế giới đều tốt nghiệp ở các trường đại học Tây phương. Và ông
nói đại học đường Tây phương đang giáo dục hết thảy những ai có quyền đưa ra
quyết định trên khắp thế giới. Và ông nói hệ thống đại học đường là – và đây là
danh sách của ông – nhân văn, tri thức theo Freud, tự nhiên, thế tục, vô thần,
hoài nghi và một vài hệ khác nữa.
Và chúng ta đã giáo dục mọi người về loại giáo dục tự
nhiên, tương đối, nhân văn, theo kiểu thế tục, theo kiểu Freud mà không biết điều
gì về tuyệt đối cả. Hệ thống ấy không biết gì về sự khẳng định của Đức Chúa Trời
hay về một tiêu chuẩn thiêng liêng hay về lẽ thật. Và hãy biết rõ, không có một
cam kết nào đối với lẽ thật ấy. Và ông nói đó là lý do tại sao một nhân vật dấy
lên trên bối cảnh chính trị như Ayatollah Khomeini, không ai hiểu ông ta trong
thế giới Tây phương bởi vì không ai hiểu cái gì cần phải cam kết đối với những
cái tuyệt đối. Ông nói rằng con người không phải là kẻ điên dại đâu, con người không
phải là khờ khạo, con người không phải là khùng đâu. Ông ta cực kỳ thông minh
và ông ta tuyệt đối cam kết với những gì quyền lực của ông ta nói và uy quyền của
ông ta là Kinh Koran.
Ông ta là một nhân vật tuyệt đối tìm cách đàm phán với
một loạt các nhà theo thuyết tương đối. Và mọi sự chúng ta có thể kết luận là bất
cứ ai nắm giữ cái thứ ấy đều là dại dột. Bởi vì chúng ta đã được giáo dục trong
một thế giới theo thuyết tương đối.
Bây giờ, (6), và trong một tư thế tóm tắt, ông nói: "Từ quan điểm
của tôi ở giữa mọi sự này, tôi cũng phải nói rằng một trong những nan đề lớn
lao nhất mà thế giới phải đối mặt là sự lui đi của Cơ đốc giáo”, sự
lui đi của Cơ đốc giáo. Ông nói, đã có ba cuộc phấn hưng lớn xảy ra trên thế giới
mới đây. Một là sự phấn hưng của hồi sinh của thuyết vô thần. Ông nói thuyết vô
thần đang lan rộng qua Đông phương, thông qua châu Âu, thông qua các phần khác
của thế giới. Ông nói, phụ thêm là sự phấn hưng của Do-thái giáo. Có một phong
trào Si-ôn và đã có trong một vài năm. Mặc dù phong trào nầy là nhỏ bởi vì có rất
ít người Do-thái. Tuy nhiên, đó vẫn là một sự phân hưng đích thực.
Và khi ấy, ông nói, có một cơn phấn hưng khác sẽ quét
sạch thế giới nếu nó tiếp tục và đó là sự phấn hưng của Hồi giáo. Và – hãy đánh
dấu nó – Hồi giáo không những là một tôn giáo, mà Hồi giáo còn là chính trị bởi
vì họ không phân biệt hai việc đó. Ông nói ở giữa sự phấn hưng của vô thần, một
sự phấn hưng Do thái và một sự phấn hưng Hồi giáo, Cơ đốc giáo đang lui đi.
Chúng ta lui đi trước chủ nghĩa cộng sản, ông nói, chúng ta lui đi trước lý thuyết
vô thần, lui đi trước chủ nghĩa duy lý. Ngay cả các thần học viện, các đại học đường
và nhiều nhà thờ của chúng ta cũng đang bơm ra chủ nghĩa nhân bản duy lý của
Freud. Chúng ta đang lui đi trước những thứ tạp nham khác nhau trong thời buổi của
chúng ta.
Nói cách khác, nếu tôi có thể tóm tắt những gì ông đã
nói, ông đã nói lẽ thật Cơ Đốc không còn cái chạm có ý nghĩa trên thế gian nữa.
Chúng ta nhìn thấy ở nước Mỹ nầy, có đúng không? Có phải nước Mỹ đưa ra các quyết
định và chính sách của nó dựa trên Lời uy quyền của Đức Chúa Trời? Đúng, điều
đó là phi lý. Tất nhiên là không. Đó là đạo đức theo đa số, có phải không? Tôi
nhớ có nghe một chính khách trên đài phát thanh và họ hỏi ông ta liệu ông ta có
tin vào án tử hình hay không!?! Ông ta nói: "Tôi sống vì án phạt tử hình, tôi sống tuyệt đối vì
án phạt tử hình. Tôi nghĩ án tử hình là một sự trừng phạt đối với tội ác, v.v…,
v.v… Và chúng ta phải bảo vệ phẩm giá sự sống của con người và Kinh Thánh nói mắt
đền mắt", và ông ta đã trích dẫn Kinh thánh và mọi thứ đều sai.
Ông ta đã sống vì việc ấy. Rồi phỏng vấn viên hỏi: "Vậy tại sao ông lại sống về việc ấy
chứ?" Ông ta đáp: "Ồ, tôi đã có phiếu của cử tri, và họ sống để mà bỏ
phiếu". Có phải đó là cách bạn xét đoán, liệu bạn có nên tước
đi sự sống của một con người, dù là người thuộc khối của bạn đã bỏ phiếu cho điều
đó hay không? Đạo đức theo đa số? Phương châm của xã hội chúng ta là: nếu nó hay,
hãy làm theo. Chẳng có gì tuyệt đối cả.
Và thế là Malik nói rằng di sản Cơ đốc giáo như chúng
ta biết nó trong thế giới phương Tây chẳng đóng một vai nào quan trọng trong
chính trị của thế giới phương Tây. Thí dụ, Cơ đốc giáo ở Châu Âu gần như là không
tồn tại. Những cái ví nhỏ bé của nó ở đây và ở đó. Cơ đốc giáo đang mờ nhạt dần.
Nó đang dần biến thành chủ nghĩa tự do cũng như nó đang dần dần biến thành chủ
nghĩa thế tục. Giờ đây, rốt lại với những phân tích về cái chết của nền văn minh
phương Tây, đây là những gì ông đã nói và điều này thực sự gây sốc cho tôi, thực
sự gây sốc cho tôi bởi vì ông nói ông là một Cơ đốc nhân và ông khẳng định rằng
ông tin nơi Đức Chúa Jêsus Christ là Cứu Chúa của ông, và rồi ông nói như vầy:
"Hy
vọng duy nhất cho thế giới phương Tây nằm trong liên minh giữa Thiên Chúa Giáo
La-mã, đây là ảnh hưởng phổ biến nhất đang khống chế yếu tố hợp nhất ở Châu Âu,
và trên hết là Giáo hội Chính thống Đông phương". Ông nói: "Rome phải kết hợp với chính thống
Đông phương bởi vì Giáo hội Chính thống Đông Phương đang kiểm soát phía Tây của
Trung Đông. Nó kiểm soát cực Đông của Địa Trung Hải. Và nếu họ không thực hiện
việc kiểm soát ấy, thì Hồi giáo sẽ diễu hành khắp châu Âu". Ông
đang nhìn vào đấy theo cách chính trị.
Vì vậy, ông nói việc thứ nhứt phải xảy ra là Rome phải
kết hợp với Giáo hội Chính thống Đông phương. Tiếp đến, ông nói: "Ngày mai Đức
Giáo Hoàng có một cuộc gặp với tộc trưởng Giáo hội Chính thống Đông
Phương". Và ông đã gặp. Có phải bạn nhìn thấy việc nầy trên trang
tin tức không? Đấy là bước đầu tiên, họ chấp nhận và họ hôn nhau và việc nầy
toàn là chính trị đây. Rồi, sau đó ông nói điều này: thêm nữa, chúng ta chỉ hy
vọng rằng thế giới phương Tây khi ấy sẽ ở trong một châu Âu hiệp nhất ở dưới sự
kiểm soát của Đức Giáo Hoàng và rồi mọi Cơ đốc nhân Tin lành trên khắp thế giới
phải bước vào chỗ đầu phục Đức Giáo Hoàng hầu cho chúng ta có một thế giới Cơ đốc
hiệp nhất.
Quí bạn ơi, khi tôi nghe như vậy, với lòng nhận biết
những gì tôi biết về sách Đa-ni-ên, tôi bắt đầu nhún nhảy trên chỗ ngồi của
mình. Tôi biết rõ điều đó sắp tới đến. Tôi chỉ không nghĩ rằng tôi đã nghe việc
ấy từ một người nào đó xưng mình là Cơ đốc nhân. Toàn bộ thế giới của Cơ đốc
giáo, hết thảy châu Âu đều thống nhất dưới quyền Đức Giáo Hoàng. Bạn biết ông ấy
đang nghĩ gì chứ! Bạn thấy ông ấy nhìn xem toàn cầu trong một sự mất cân đối.
Đây là Hồi giáo và hệ thống phương Đông và phương Tây đang cai sữa vì mất mát những
điều tuyệt đối dẫn tới sự tan rã. Và ông biết rằng yếu tố phổ thông duy nhất ở
Châu Âu, ở Bắc Mỹ và Nam Mỹ là Giáo hội Thiên Chúa Giáo La-mã. Mẫu số chung duy
nhất cho sự thống nhất cung ứng cho thế giới phương Tây sức mạnh của nó. Một
châu Âu hiệp nhất do Đức Giáo hoàng lãnh đạo. Hãy xem xét mọi sự từ Anh quốc
qua phía Đông đến bờ biển phía Đông của biển Địa Trung Hải.
Có phải bạn biết hết các dân trong khu vực đó thuộc về một thời
điểm trong lịch sử không? Nó từng thuộc về Rome. Và có phải bạn biết Đa-ni-ên
nói trong Đa-ni-ên 2 rằng một ngày kia Đế quốc La Mã sẽ tự hồi sinh không? Khi
tôi nghe điều đó, tôi thực sự bị sốc ngay. Như tôi đã nói, tôi biết rõ việc ấy
đang tới đến, tôi đã không nghĩ mình đã nghe được việc ấy bằng các thuật ngữ
này. Và ông cũng muốn kéo nước Mỹ vào nữa.
Bây giờ tại sao tôi lại nói với bạn điều này chứ? Phải,
bởi vì tôi tin rằng đó là một lực đẩy khác và tôi không thể cung ứng cho bạn
các lực đẩy khác nữa đâu. Điều đó thật mới mẻ trong tâm trí tôi trong tuần này.
Nhưng đó là một lực đẩy khác cho chúng ta thấy chúng ta đang nhanh chóng tiến đến
sự ứng nghiệm của Đa-ni-ên 2. Đây là một người đã sống cách đây 600 năm trước công
nguyên, tuy nhiên đã tóm lược từng chi tiết những gì đang xảy ra trong đời sống
của bạn. Chúng ta không nên bị sốc. Trong Thi Thiên 22, Đa-vít, là người sống
hàng trăm năm trước khi Chúa Jêsus giáng sinh, đã đưa ra chi tiết rõ ràng từng
yếu tố của sự đóng đinh trên thập tự giá và đã mô tả việc ấy. Có ít nhất 330 cộng
với những lời tiên tri được trình bày rõ ràng trong Cựu Ước liên quan đến Đức Chúa
Jêsus Christ, phần nhiều trong số đó đã xảy ra rồi trong lần đến thứ nhứt của
Ngài và phần còn lại trong lần đến thứ hai của Ngài. Có phải bạn biết Cựu Ước đã
nói tiên tri sự giải thể của Ba-by-lôn bằng cây roi không? Cựu Ước nói tiên tri
về sự huỷ diệt của Ai-cập và điều đó đã xảy đến. Cựu Ước nói tiêu tri về sự huỷ
diệt Ty-rơ và Si-đôn, hai thành phố lớn, và điều đó đã xảy đến. Cựu Ước nói
tiên tri về một người tên là Si-ru sẽ chào đời và ông ta sẽ đưa dân Do-thái ra
khỏi cảnh phu tù. Ông ấy đã chào đời và ông đã buông tha cho họ.
Theo tâm trí của tôi, bằng chứng vĩ đại nhất của Kinh
Thánh là lời tiên tri đã ứng nghiệm vì đó là bằng chứng ngoại tại đối với Kinh
Thánh. Kinh Thánh nói ra việc ấy và điều đó được xác minh trong lịch sử nhân loại.
Và các nhà truyền đạo không có bất kỳ quyền kiểm soát nào trên lịch sử để khiến
Kinh thánh thành ra sự thật. Mà đó là Đức Chúa Trời.
Bây giờ từng thế lực và từng quốc gia đều giả định rằng
nó sẽ tồn tại cho đến đời đời. Hoặc ít nhất là mong muốn như thế. Tôi giả sử khi
chúng ta nghiên cứu Cựu Ước và chúng ta nghiên cứu lịch sử nhân loại thì có một
việc chung nhất mà các quốc gia suy nghĩ, ấy là họ sẽ dấy lên nắm lấy quyền lực
và họ sẽ vượt qua quyền lực đó.
Khi chúng ta đến với sách Đa-ni-ên, đã có một quốc
gia rộng lớn với thế lực hùng mạnh. Quốc gia đó là Ba-by-lôn, quốc gia đó ai
cũng biết là Đế quốc Neo-Babylon. Vị hoàng đế đầu tiên của Đế quốc Neo-Babylon
là một người tên là Nê-bu-cát-nết-sa, con trai của Nabopolassar. Nabopolassar là
một người dao động dưới quyền đế quốc A-si-ri, nhưng ông đã lo xây dựng một
quân đội rất lớn, đánh bại người A-si-ri và khi ấy ở trận Curcumas, ông đã xóa
sổ xã hội người Ai-cập đến mức mà Ai-cập chằng còn dấy lên được nữa từ đống tro
tàn của mình, họ trở thành một thứ có vẻ như chưa từng có. Bây giờ chúng ta đến
tại chỗ đó, chúng ta sẽ thấy Sphinx (quái
vật đầu đàn bà mình sư tử) và các Kim tự tháp và mọi thứ đồ sộ còn sót lại
của nền văn minh vĩ đại kia không còn nữa và sẽ không còn nữa.
Nhân vật nầy mới đến, Nê-bu-cát-nết-sa, và ông ta đã chiếm
hết các thứ mà cha mình đã vun đắp. Ông ta chiếm hết điều chi là Ai-cập, điều
chi là A-si-ri và toàn bộ khu vực Trung Đông trải dài về phía Tây và lan rộng tới
phía Đông. Và Kinh thánh luôn luôn nhìn xem thế giới và ở tâm điểm của nó, và
trung tâm của nó là Jerusalem. Loại thế giới của những khởi sự và trải dài từ
đó. Và một phần của thế giới bị thống trị bởi nhân vật này, báo hiệu toàn bộ viễn
cảnh của Kinh Thánh, thế giới của Kinh thánh.
Kinh Thánh chỉ ra rằng nếu ông ta có thời gian và nếu
ông ta có nhiều tài nguyên, ông ta sẽ có quyền lực chinh phục cả thế giới. Nhân
vật Nê-bu-cát-nết-sa này đang cai trị thế giới trong thời của Đa-ni-ên. Giờ
đây, khi ông ta bắt đầu sự trị vì của mình trong vương quốc Ba-by-lôn, ông ta đã
phá hủy xứ Giu-đa. Và trong việc huỷ diệt xứ Giu-đa, dân sự của Đức Chúa Trời, ông
ta bắt họ đi làm phu tù ở trong xứ của ông ta. Điều này rất phổ biến trong lịch
sử, bắt đi làm phu tù. Họ sử dụng chúng cho lao động nô lệ. Họ vẫn sử dụng
chúng theo cách họ có thể.
Trong lần lưu đày thứ nhứt vào năm 605TC, Nê-bu-cát-nết-sa
bước vào triều đình xứ Giu-đa, vì họ có triều đình riêng, vua riêng và mọi việc
riêng của họ. Ông ta bước vào triều đình của Giu-đa và ông ta nói ta muốn tất cả
những thanh niên trẻ tuổi nhất, hết thảy những người nào là con cái của hàng
quí tộc, ta muốn hết thảy những người thuộc dòng dõi hoàng tộc. Ta muốn thứ sản
phẩm tinh tuý kìa. Và lịch sử dường như cho thấy khoảng 75 thanh niên nầy, có lẽ
họ từ độ tuổi 14 sắp lên. Tuổi thanh thiếu niên của họ, và họ là huyết thống hoàng
tộc và huyết thống quí tộc. Họ là những người đã được hưởng lợi từ nền giáo dục
tốt nhất khả thi dành cho họ trong xứ của riêng họ.
Và kế hoạch của ông ta là dạy dỗ họ trong xã hội Ba-by-lôn
rồi sau đó sử dụng họ trong các vụ việc của người Do-thái. Bởi vì ông ta đã bắt
tù cả một quốc gia và bây giờ ông ta phải cai trị số người đó và ông ta phải hiểu
rõ số người đó. Và nếu ông ta có thể sắp xếp theo kiểu Ba-by-lôn hoá một số nhà
lãnh đạo giỏi nhất của họ, một số thanh niên chọn lọc của họ - ông ta sẽ không
làm việc với mấy cụ già bởi vì họ cứ miệt mài theo cách thức của họ - nhưng với
một số thanh niên chọn lọc thì ông ta có thể cai trị trong các vụ việc của người
Do-thái.
Một trong những thanh niên mà ông ta bắt đi là một
người tên là Đa-ni-ên. Người có ba người bạn đi cùng với mình – Ha-na-nia, A-xa-ria
và Mi-ca-ên. Cả bốn người họ đã nắm lấy chỗ đứng không thoả hiệp và nói, phải, có
một số việc chúng tôi sẽ làm, hỡi Vua Nê-bu-cát-nết-sa, nhưng có một số điều
chúng tôi sẽ không làm. Bởi vì Đức Chúa Trời của chúng tôi đã bảo chúng tôi đừng
làm. Và thế là họ đã rút ra một sợi dây không thoả hiệp rồi nói: "Chúng tôi
sẽ tôn vinh Đức Chúa Trời của chúng tôi và lời của Ngài". Họ là
những con người theo hình thức tuyệt đối. Chúng tôi sẽ làm theo những gì Đức
Chúa Trời phán và chúng tôi sẽ không làm những gì ông bảo chúng tôi phải làm.
Về sau, như chúng ta sẽ thấy, cả ba người đều bị quăng
vào lò lửa hực. Cuối cùng thì Đa-ni-ên bị quăng cho mấy con sư tử đói, song họ
sẽ không thỏa hiệp. Và trong cả nhóm, chúng ta chỉ biết bốn cái tên thực sự đứng
vững vàng, họ thực sự duy trì địa vị của họ và đấy là bốn cái tên trường cửu.
Và trong số bốn người đó, một người đã thăng lên đến địa vị cao tột, và đó là
Đa-ni-ên. Tại sao chứ? Bởi vì Đức Chúa Trời đã ban cho ông ta vai trò của một vị
tiên tri.
Hãy nhìn vào chương 1, câu 17: "Vả,
Đức Chúa Trời ban cho bốn người trai trẻ đó được thông biết tỏ sáng trong mọi
thứ học thức và sự khôn ngoan". Họ có tri thức, kỹ năng, mọi sự khoa
học và sự khôn ngoan - hãy quan sát điều nầy - "nhưng Đa-ni-ên đã có hiểu biết trong
mọi tầm nhìn và ước mơ". Người đã có ân tứ nói tiên tri. Người
có thể lãnh hội những sự hiện thấy và giải thích điềm chiêm bao. Bây giờ tại
sao? Không có một lời thành văn nào trong thời buổi đó ghi đủ cả. Đức Chúa Trời
vẫn còn tỏ ta Lời của Ngài. Và Đức Chúa Trời đang sử dụng các tiên tri làm
phương tiện cho sự khải thị của Ngài. Và việc rất quan trọng, ấy là Đức Chúa Trời
có người được chọn này qua người mà Ngài có thể trao đổi với thế gian. Và
Đa-ni-ên là người của Ngài. Vì vậy, Ngài đã ban cho người khả năng tiếp nhận sự
khải thị và chiêm bao.
Rồi với điều đó trong tâm trí, chúng ta hãy đến
chương 2. Và trong chương 2, Đức Chúa Trời ban điềm chiêm bao cho Nê-bu-cát-nết-sa.
Giờ đây, nhân vật nầy thực sự là một vì vua, có thể được xác minh về mặt lịch sử.
Vị vua vĩ đại đầu tiên của Ba-by-lôn, trị vì 43 năm, tôi nghĩ đúng là thế đấy.
Và đế quốc chỉ kéo dài 80 năm nên ông thực sự thống trị nó. Và Ngài đã ban cho
ông ta một điềm chiêm bao, Đức Chúa Trời ban cho. Ông ta có nhiều chiêm bao. Thế
thì chiêm bao xảy ra như thế nào mới được?
Bạn có nhớ tôi đã nói gì với bạn tuần trước không? Nếu
bạn đọc phần thứ nhứt của chương, chương 2, bạn sẽ thấy rằng Nê-bu-vát-nết-sa trong
Đa-ni-ên, các câu 28 và 29, ông ta đã nằm trên giường của mình vào một tối kia.
Và ông lo lắng đến cuộc tương lai. Chúng ta đã nói rằng các câu 1-30 là chiêm
bao đã nhận được. Và Nê-bu-cát-nết-sa đang nằm trên giường mình và ông ta đang
lo về cuộc tương lai. Và ông lo lắng về việc gì sẽ xảy ra với đế quốc của ông. Đế
quốc ấy sẽ kéo dài bao lâu? Bao lâu nữa thì nó kết thúc? Ai sẽ đánh hạ ông ta theo
cách mà cha ông ta đã đánh bại ai đó.
Rồi khi ông ta đang nằm trên giường với những suy
nghĩ về toàn bộ đế quốc của mình sẽ đi về đâu, ông ta ngủ thiếp đi. Rồi trong
giấc ngủ ấy, ông ta chiêm bao thấy một số giấc mơ. Nhưng có một chiêm bao trong
số đó không phải là giấc mơ của riêng ông ta. Đó là sự Đức Chúa Trời mặc khải cho
ông ta. Và bạn có biết việc gì đã xảy ra không? Tôi tin phân đoạn Kinh Thánh
cho chúng ta biết, ông ta thức dậy vào buổi sáng sợ bắt chết song không thể nhớ
lại các chi tiết chiêm bao của mình. Bạn từng có kinh nghiệm đó chưa? Bạn đã có
một giấc mơ xấu và bạn lo sợ rồi bạn cố gắng suy nghĩ, muốn ghép chúng lại với
nhau mà bạn lại không có được các chi tiết. Tôi tin Đức Chúa Trời đã ban cho
ông ta chiêm bao rồi sau đó tôi tin Đức Chúa Trời giúp ông ta quên nó đi.
Bạn nói: "Thôi nào, hãy đợi chút đi. Tại sao Đức Chúa Trời
ban cho ông ta điềm chiêm bao rồi khiến cho ông ta quên nó đi?"
Bởi vì Đức Chúa Trời muốn dấy Đa-ni-ên lên. Nê-bu-cát-nết-sa ngay lập tức vội
vã đến với tất cả những người khôn ngoan, họ được giáo dục về chiêm tinh học và
mọi bộ môn khác cùng với pháp thuật của người Canh-đê và tất cả những điều đó. Rồi
ông ta tập trung họ lại rồi nói: "Hãy thuật lại cho ta điềm chiêm bao. Các ngươi là bậc
thầy, các ngươi là những người khôn ngoan. Các ngươi thuộc loại tiên kiến, tiên
tri và là những người có tầm nhìn. Hãy thuật lại điềm chiêm bao cho ta. Hãy
ghép lại từng mảnh một rồi giải thích cho ta". Và hết thảy họ đều
đứng đó và họ không thể làm chi được. Vô ích thôi, khi bị buộc phải làm công việc
ấy.
Họ không thể thuật lại cho ông điềm chiêm bao đó. Họ
là những tay lang băm, họ là những kẻ chuyên lừa gạt. Hạng tốt nhứt nơi họ là bị
quỉ ám và Satan không thể đọc được tâm trí và thế là họ bù trất. Họ không thể
thuật lại cho ông ta điềm chiêm bao đó. Rồi ông ta nói: "Nếu các ngươi không thuật lại cho ta
chiêm bao ấy, ta sẽ giết từng người một trong các ngươi". Rồi,
những kẻ ấy đi ra, gã đao phủ đến với Đa-ni-ên vì Đa-ni-ên là một trong các học
viên giữa vòng những người khôn ngoan vào thời điểm nầy. Gã nói: "Nào. Hết
thảy các ngươi sẽ chết mất vì các ngươi không thể thuật lại điềm chiêm bao".
Đa-ni-ên thậm chí không hay biết gì về việc ấy. Và ông nói: "Đợi một chút đi mà. Ông cho tôi một
phút đi rồi tôi sẽ thuật lại điềm chiêm bao ấy". Làm sao ông biết
được chứ? Ông biết Đức Chúa Trời đã ban cho ông khả năng đó.
Ông quì xuống trên hai đầu gối cùng với ba người bạn
của mình và họ bắt đầu cầu nguyện. Và rồi chúng ta đến với các câu 31-35.
Đa-ni-ên đã tiếp lấy câu trả lời cho sự cầu nguyện của mình. Chúng ta không những
có điềm chiêm bao đã nhận được mà điềm chiêm bao còn được nhớ lại nữa. Ở các
câu 31-35, Đa-ni-ên bước vào rồi trình cho nhà vua điềm chiêm bao của ông ta. Chúng
ta hãy đọc phân đoạn Kinh Thánh ấy một lần nữa. "Hỡi vua, vua nhìn xem, và nầy, có một pho
tượng lớn. Pho tượng đó to lớn và rực rỡ lạ thường; đứng trước mặt vua, và hình
dạng dữ tợn". Nói cách khác, đây là một thứ thật tuyệt vời, đồ sộ, lớn lao
và rực rỡ chiếu sáng theo tiếng Hy-bá-lai hoặc tiếng A-ram.
Cái đầu của pho tượng này bằng vàng ròng, ngực và hai
cánh tay bằng bạc, bụng và vế bằng đồng, hai chân nó bằng sắt, bàn chân của nó một
phần bằng sắt và một phần bằng đất sét. Giờ đây, ông tỏ ra những gì vua nhìn thấy
trong chiêm bao - và ông ta bắt đầu nhớ, tôi dám chắc, khi ông ta nghe về nó -
đó là bức tượng khổng lồ với một cái đầu bằng vàng, ngực và cánh tay bằng bạc, bụng
và vế bằng đồng. Hai chân bằng sắt. Bàn chân và ngón chân bằng sắt trộn lẫn với
đất sét.
Thế rồi Kinh Thánh chép ở câu 34: "Vua nhìn pho tượng cho đến khi có một hòn đá chẳng phải bởi tay
đục ra, đến đập vào bàn chân bằng sắt và đất sét của tượng, và làm cho tan nát". Giống như một hoả tiễn vậy, ở đây hòn
đá lao đến và nó không được cắt đẻo từ tay người ta. Hòn đá ấy dường chẳng phải
là do người thợ nào đục ra, nó đến từ đâu không ai biết và nó đập vỡ hai chân của
pho tượng đó. Thế là với sắt, đất sét, đồng, bạc và vàng bị tan nát hết, giống
như rơm trên sân đạp lúa mùa hè và ngọn gió đùa chúng đi mà không tìm thấy chỗ
nào cho chúng nữa. Và hòn đá đập vào pho tượng đã trở thành một hòn núi lớn đầy
dẫy cả Đất.
Giờ đây nói thẳng ra, nếu bạn và tôi có một chiêm bao
giống như thế, ai đó sẽ nghĩ rằng chúng ta đã ăn dưa chua và dâu tây. Đó là một
chiêm bao thật kỳ lạ, rất lạ lùng. Và vì vậy, dường như chúng ta gợi nhớ lại điềm
chiêm bao. Có phải bạn để ý thấy một số việc trong chiêm bao ấy chăng? Có phải
bạn thấy rằng bức tượng trải từ trên xuống và giá trị của kim loại quí từ vàng
đến bạc, đến đồng, sắt, đến sắt và đất sét. Có phải bạn để ý thấy rằng nó trở
nên đa dạng hơn khi trải lần xuống như thế không? Nó khởi sự như một cái đầu -
có sự liên đới. Rồi nó xuống tới ngực và hai cánh tay rồi sau đó lần xuống bụng
và vế. Rồi cuối cùng nó kết thúc ở mười ngón chân. Cũng có một sự đa dạng giảm dần
xuống nơi pho tượng này.
Và có phải bạn để ý thấy rằng nó có trọng lượng riêng
giảm dần không? Vàng nặng hơn gấp đôi so với sắt và đất sét trộn lại. Vì vậy,
nó nặng ở trên và dễ dàng bị chao ngã. Rồi khi hòn đá đập vào nó, nó sẽ vỡ ra và
ngọn gió thổi nó bay đi. Vì vậy, chiêm bao đã nhận được, chiêm bao được gợi lại
và giờ đây chiêm bao được tỏ ra. Đa-ni-ên sẽ cho chúng ta biết chiêm bao đó là
như thế nào ở câu 36.
Đây là điềm chiêm bao và chúng ta sẽ thuật lại phần
lý giải nó trước mặt nhà vua. Giờ đây, đã đến lúc: "Hỡi vua, vua là vua các vua, vì Chúa trên trời
đã ban nước, quyền, sức mạnh, và sự vinh hiển cho vua. Ngài đã trao trong tay vua những con cái loài
người, những thú đồng và chim trời, dầu chúng nó ở nơi nào, Ngài cũng đã làm
cho vua được cai trị hết thảy; vậy vua là cái đầu bằng vàng”. Vua
là cái đầu bằng vàng. Hỡi vua, hỡi Nê-bu-cát-nết-sa, vua cai trị thế gian. Vua
là cái đầu bằng vàng.
"Nhưng sau vua, sẽ dấy lên một nước khác". Từ ngữ “kém hơn” dịch tốt hơn là “thấp hơn”.
Nước kế đó lần xuống là một nước khác. Bạn để ý thấy Đaniên không nói cho vua
biết đó là nước nào? Ông không nói ra tên nó, không nói nó là ai vì ông không
muốn Nê-bu-cát-nết-sa nhìn biết nước ấy đến từ đâu. Rồi sau đó ông nói vương quốc
thứ ba bằng đồng sẽ nắm lấy sự cai trị trên khắp Đất và vương quốc thứ tư sẽ cứng
như sắt cho đến khi sắt đập vỡ thành từng mảnh và bắt phục mọi thứ. Và giống như
sắt đập vỡ mọi thứ vua sẽ thấy tan nát hết.
Bây giờ hãy ở lại cùng với tôi. Tôi muốn bạn tiếp thu
điều này. Ông nói: "Hỡi Nê-bu-cát-nết-sa, vua đã nhìn thấy bốn vương quốc lớn cấp
thế giới. Bốn vương quốc này trải từ vua, hỡi Nê-bu-cát-nết-sa, đến hòn đá, nó
đập tan tành hết mọi thứ, và đầy dẫy cả Đất”. Đây là câu chuyện nói
tới lịch sử nhân loại hình thành từ Nê-bu-cát-nết-sa-rơ cho đến hòn đá va đập
kia. Chúa Jêsus đã đề cập đến cùng thời kỳ ấy ở Lu-ca 21:24. Ngài gọi đó là thời
kỳ các dân Ngoại hay thời kỳ của các nước. Đây là thời kỳ khi các nước thống trị
đất Y-sơ-ra-ên. Israel bị gạt sang một bên. Tiên tri Êxêchiên trong chương 9,
chương 10, chương 11, chương 21, nói Y-ca-bốt đã được viết ra trên khắp xứ Israel.
Họ sẽ bị đưa đến Ba-by-lôn và sẽ bắt đầu thời kỳ khi các dân Ngoại cai trị
trong xứ Y-sơ-ra-ên.
Và hãy tin đi, hỡi anh em, họ vẫn còn ở dưới ấn tượng của
các nước ngay cả lúc bây giờ đây. Y-sơ-ra-ên vẫn đang tạm giữ một phần nhỏ đất đai
so với phần đất nguyên thuỷ do Đức Chúa Trời ban cho họ, là phần đất trải dài từ
phía Bắc cho đến sông ở Ai Cập. Và từ biển cho đến sông Tigris và sông Euphrates.
Con đường dẫn tới địa điểm đó là Iran, Iraq và Ba Tư và hết thảy các xứ ấy. Thậm
chí họ chưa có một chút gì là thuộc về họ bởi món quà nguyên thuỷ của Đức Chúa
Trời.
Và do đó, vẫn còn có sự áp bức của các nước trên vùng đất
này cho đến khi hòn đá đến đập nát các đế quốc của trần gian. Và tôi muốn sánh
việc nầy với một việc trong Đa-ni-ên 7 chừng một phút thôi. Hãy ở lại với tôi, mọi
sự cùng nhau đến cho bạn đây. Đa-ni-ên 7:1: "Năm đầu đời vua Bên-xát-sa, nước Ba-by-lôn", là nhân vật đến sau Nê-bu-cát-nết-sa
một thời gian: "Đa-ni-ên đang nằm trên giường, thì thấy chiêm
bao, và những sự hiện thấy trong đầu mình. Người bèn viết chiêm bao đó ra, và
thuật lại đại lược các sự ấy”.
“Vậy, Đa-ni-ên nói rằng: Đang đêm, ta nhìn xem trong sự
hiện thấy, và, nầy, có bốn hướng gió trên trời xô xát trên biển lớn. Đoạn, bốn
con thú lớn từ biển lên; con nọ khác con kia”.
Bây giờ hãy để ý đi: đây là "bốn
con thú" – đây là bốn cách khác để nhìn xem cùng các đế quốc
trần gian nầy. Đế quốc thứ nhứt giống như con sư tử và có hai cánh chim ưng. Tôi
xem tới thì thấy hai cánh của nó đã bị nhổ và nó bị cất lên khỏi Đất rồi đứng
hai chân như người ta rồi được ban cho lòng loài người.
"Nầy" – câu 5 - "con
thú thứ hai”. Con thú thứ hai in như con gấu và nó đứng nghiêng
một bên và có ba cái xương sườn trong miệng nó, giữa những răng nó và người ta
bảo nó hãy chỗi dậy và cắn nuốt nhiều thịt. Sau con thú nầy và kìa có con thú
khác giống như con beo, trên lưng nó có bốn cánh – đấy là một con thú chạy rất
nhanh, một con beo, và khi nó có đôi cánh, nó thực sự rất nhanh.
Rồi trong câu 7: "một con thú thứ tư, dữ tợn, rất mạnh và có sức
lắm. Con thú đó có những răng lớn bằng sắt; nó nuốt ăn và nghiền nát, dùng chân
giày đạp vật gì còn lại, nó khác với các con thú đã đến trước, và có mười sừng”.
Con thú cuối cùng, có mười sừng. Phần cuối của pho tượng, mười cái gì? Mười ngón
chân. Trong cả hai trường hợp, hình thức sau cùng của thế lực trần gian sẽ có một
lai lịch gấp 10 lần.
Bây giờ, bốn đế quốc nầy là gì chứ? Hãy quay lại
chương 2, và tôi sẽ đi nhanh chóng – phần ôn tập nầy thì khá lâu và thời gian thì
trôi qua quá nhanh. Nhưng tôi phải nói cho bạn biết điều này: chúng ta hãy nhớ
rằng cái đầu bằng vàng là đế quốc Ba-by-lôn. Kéo dài khoảng 80 năm và qua đi
khi người Mê-đi Ba-tư bước vào trong một đêm rồi phá diệt họ. Chúng ta sẽ tìm
hiểu toàn bộ câu chuyện ở Đa-ni-ên 5. Ở đây cung ứng toàn bộ mô tả cách thức họ
chiếm thành Ba-by-lôn rồi trải đi từ Đế quốc Ba-by-lôn. Trước tiên là Ba-by-lôn.
Sự sụp đổ của Đế quốc Ba-by-lôn đã đến một cách thình
lình. Tôi dám chắc đã có một số hột giống của sự tan rã. Nê-bu-cát-nết-sa qua đời
vào năm 562TC. Một người tên là Emil Marduke – con ruột của ông ta – nối ngôi
ông ta. Bạn nhớ Marduke là một trong những vị thần của họ. Họ luôn tự đặt tên mình
theo tên thần của họ. Emil Marduke nối ngôi ông ta, nhân vật nầy nhanh chóng bị
ám sát. Năm 560TC, chỉ vài năm sau, Nera Glassertook lên làm vua. Sau bốn năm, nhân
vật nầy qua đời. Con trai ông kế nhiệm ông, cũng bị ám sát. Rồi một người có tên
là Nabanitus xuất hiện. Và Nabanitus nắm giữ quyền lực to lớn và chia sẻ quyền
lực với cộng sự mình có tên là Bên-xát-sa.
Vậy, những gì bạn có trong Đế quốc Ba-by-lôn là dây chuyền kéo
dài trong 43 năm và rồi mọi sự đều sụp đổ hết. Hết người nầy bị ám sát rồi đến
người khác. Cuối cùng, Bên-xát-sa trong tình trạng say rượu đã tổ chức một bữa
tiệc thật điên rồ - có ghi lại ở Đa-ni-ên 5 - và ở giữa sự dại dột và điên rồ của
ông ta, người Mê-đi Ba-tư đã diễu hành ngang qua thành phố và tàn phá toàn bộ đế
quốc của ông ta. Sự sụp đổ của Ba-by-lôn.
Bây giờ hãy lắng nghe đi, sự sụp đổ của Ba-by-lôn là
sự kết thúc của đế quốc Ba-by-lôn nhưng đó không phải cuối cùng ảnh hưởng của Ba-by-lôn.
Bởi vì ở Ba-by-lôn các hệ thống tà giáo đã bắt đầu. Hệ thống đầu tiên của tôn
giáo giả từng được ghi lại trong Kinh thánh là gì chứ? Tháp nào vậy? Ba-bên. Và rồi từ đó Ba-by-lôn trở nên đồng nghĩa với tôn
giáo giả hiệu. Và xã hội và các tôn giáo của Ba-by-lôn đã tìm ra con đường của
họ để làm ô uế dòng nhân loại, hầu cho một ngày kia khi các chặng sau cùng của
tôn giáo giả hiệu của con người ngóc cái đầu xấu xí của nó trên Đất - ở Khải
huyền 17 - Chúa phán: "Tên của nó
sẽ được gọi là Ba-by-lôn Lớn".
Tại sao chứ? Bởi vì Ba-by-lôn là dòng chảy của các hệ
thống tôn giáo giả hiệu. Và vì thế trong khi đế quốc sụp đổ, sự ô uế của các
tôn giáo con người đã được tìm được lối nhập vào dòng lịch sử. Ba-by-lôn được kế
nhiệm bởi Mê-đi Ba-tư. Mê-đi Ba-tư trong câu 39: "Hãy lần xuống pho tượng, vương quốc bằng
bạc, hai cánh tay và ngực". Hai phần, Mê-đi và Ba-tư, bằng bạc.
Đế quốc Mê-đi Ba-tư kéo dài khoảng 200 năm, dài hơn 120 năm so với Ba-by-lôn. Chính
trong thời Mê-đi và người Ba Tư, Si-ru đã cho phép dân Do-thái trở về và tái
thiết lại xứ sở của họ, ra vẻ giống như xứ đã từng có vậy.
Đế quốc thứ ba trong câu 39 chúng ta bước vào chi tiết.
Nếu bạn chưa biết điều này, hãy lấy băng thu âm từ tuần rồi và bạn sẽ thấy mọi
sự nầy cụ thể là dường nào! Chúng ta biết Đế quốc Mê-đi Ba-tư được Hy-lạp nối theo
sau. Lịch sử cho chúng ta biết điều đó. Chẳng có thắc mắc gì hết. Và đế quốc ấy
sẽ cai trị trên cả Đất. Tôi nói cho bạn biết Alexander Đại đế, đòi hỏi tước hiệu
vua của cả Đất. Ông ta mở rộng đế quốc của mình từ Tây Âu sang Ấn Độ. Sự chinh
phục lớn lao bởi một người ngã chết ngay sau khi ông ta mới 30 tuổi. Thật khó
tin. Không có gì ngạc nhiên khi ông ta được nhìn thấy trong Đa-ni-ên 7 là một
con beo với đôi cánh, có tốc độ rất nhanh trên toàn cầu. Ông ta đã đi qua
Hellespont, chinh phục Hy-lạp và Rome, lần đầu tiên gặp sự chống đối của người
Ba-tư ở Granicus, bắt phục các nước trong vùng Tiểu Á. Ông ta thật đã đánh bại
một nửa triệu người Ba-tư dưới thời Derias. Ông ta tàn sát họ và bẻ gãy lưng đế
quốc sau đó và rồi ông ta bắt đầu chiếm hết thành nầy đến thành khác. Rồi thậm
chí quét sạch và chiếm lấy Ai-cập.
Và ông ta đã chiếm lấy Ai-cập, ông ta thành lập thành
phố vẫn còn ở đó - thành phố Alexandria được thành lập bởi Alexander Đại Đế và lấy
theo tên ông. Sau đó, ông ta đã đánh bại Derias và quét sạch hoàn toàn Mê-đi và
người Ba-tư và Hêbơrơ trên thế giới. Ông ta trở lại Ba-by-lôn. Tin điều nầy hay
không, ông ta lập Ba-by-lôn, Ba-by-lôn cổ đại làm thủ đô của ông ta, ông ta đã
chết, các sử gia cho chúng ta biết tánh tham ăn, say sưa và sốt rét nơi người tuổi
trẻ này. Và ai đã đi theo ông ta? Ông ta đã cố gắng để chia đế quốc ra làm bốn
phần, nhưng các tướng lãnh của ông mất quyền lực của họ trước người La-mã.
Và chúng ta gặp họ trong câu 40 cứng như sắt. "Lại có một nước thứ tư mạnh như sắt; vì sắt hay đập vỡ và bắt
phục mọi vật, thì nước ấy cũng sẽ đập vỡ và nghiền nát như là sắt vậy". Đế quốc của người La-mã. Đến thế kỷ
thứ hai trước công nguyên, Địa Trung Hải đã trở thành một cái hồ của người La-mã
và người La-mã cai trị phần ấy của thế giới, từ nước Anh đến sông Euphrates, từ
Bắc Âu đến Châu Phi.
Tôi được ơn sống ở phần phía Đông của thế giới Ả-rập
cách đây không lâu lắm và ở tiền đồn phía Đông của Đế quốc La-mã, được biết đến
là Baalbeck. Nó được viết ra với hai chữ “a” như để tưởng niệm thần Baal. Sự trung
thành của người La-mã đã lan rộng khắp mọi nơi, dẫm bàn chân sắt của họ trên thế
giới buộc người ta phải phục theo.
Nhưng sự việc không kết thúc ở đó. Bây giờ mới là phần
giới thiệu, đây mới là bài giảng. Câu 41 - bạn có thể thoải mái, bạn sẽ ra về đúng
giờ. Đồng thời, mấy giờ thì mới là đúng giờ? Câu 41: "Còn như vua đã thấy bàn chân và ngón chân nửa
bằng đất sét nửa bằng sắt, ấy là một nước sẽ phải phân chia ra; nhưng trong
nước đó sẽ có sức mạnh của sắt, theo như vua đã thấy sắt lộn với đất sét". Đế quốc La-mã có chia ra không vậy?
Ở những mảng nào chứ? Đông và Tây. “Nhưng
trong nước đó sẽ có sức mạnh của sắt, theo như vua đã thấy sắt lộn với đất sét". Đó sẽ là một đế quốc mạnh. Và, đồng
thời, đế quốc La -mã đã kéo dài 500 năm. Alexander, chưa đầy 200 năm. Mê-đi và Ba-tư,
hơn 200 năm. Ba-by-lôn, 80 năm. Nhưng Đế quốc La-mã ở phía Tây, 500 năm. Phía Đông
kéo dài đến năm 1453 khi Constantinople bị Thổ nhĩ kỳ chiếm lấy. Nó rất cứng.
Nhưng nó bị trộn với đất sét - câu 42. "Những ngón chân nửa sắt nửa đất sét, nước đó cũng nửa mạnh nửa
giòn”. Đất sét ở đây là từ ngữ nói tới thứ
đất sét nung dùng làm ngói. Nó rất giòn.
Bây giờ. đây là gì chứ? Câu 43 thêm vào một việc. "Vua đã thấy sắt lộn với đất sét, ấy là chúng nó lộn nhau bởi
giống loài người; song không dính cùng nhau, cũng như sắt không ăn với đất sét”. Sắt
và đất sét không dính vào nhau. "Và nhược điểm và tính dễ bị tổn thương của Đế quốc
La-mã, ấy là nó sẽ là sự pha trộn của sức mạnh và nhược điểm và nhược điểm ở
đây được gọi là hột giống con người". Vương quốc là một tổ hợp
của cứng và giòn. Bây giờ, ở câu 31 nói rằng nó mạnh như sắt. Nó cứng lắm.
Chính phủ của người La-mã đã được tổ chức chặt chẽ, được sắp đặt rất vững chắc.
Quân đội của nó rất thuần thục, có kỷ luật rất tốt. Các chính sách của nó đã được
xác định rõ ràng.
Thực vậy, chúng được xác định rất mỹ mãn và được thực
hiện tốt đến mức chúng có thể bày ra cái điều được biết đến trong lịch sử là pax romana (nền
hoà bình La-mã). Họ đã có một lượng hoà bình rất tuyệt vời trong tất
cả các đế quốc. Nhưng đã có một nhược điểm. Nhược điểm không phải ở hai chân, nhược
điểm nằm ở bàn chân. Bạn nói: "Đâu là tầm quan trọng của việc ấy?"
Bởi vì nhược điểm yếu chỉ xuất hiện ở hình thức sau cùng. Họ đã từng mạnh mẽ.
Nhưng trong hình thức sau cùng, sẽ có nhược điểm, nhược điểm rất lớn. Và đâu là
nhược điểm đó? Câu 43 chép: "Đất sét là giống của loài người".
Điều đó có ý nói gì chứ? Điều đó có ý nói gì chứ?
Phải, mọi loại học giả đã vờn quanh ở chỗ đó và tôi
không muốn nói rằng tôi biết câu trả lời tuyệt đối, nhưng tôi sẽ cung ứng cho bạn
những gì tôi nghĩ là tốt nhất. Bạn có biết tôi nghĩ về câu nói ấy như thế nào
không? Tôi nghĩ nó đề cập đến chính con người. Tôi nghĩ vấn đề trong hình thức sau
cùng của Đế quốc La-mã sẽ là có quá nhiều dân dính dáng vào các vấn đề. Đoàn kết
sẽ bị mất đi trong Đế Quốc La-mã sau cùng. Nó sẽ bị pha trộn. Sẽ có một sự phân
rã, một sự thiếu đoàn kết. Thực vậy, Robert Culver, người đã làm một số điều kỳ
diệu trong lãnh vực này của Kinh thánh, ông nói: "Đất sét tiêu biểu cho sự tối hậu làm
mất đi phẩm cách của bậc cầm quyền". Ở đầu pho tượng là cái đầu
bằng vàng. Đó không phải là một đế quốc, đó là người duy nhất trong số nước mà
ông nói là một con người, đó là vua, hỡi Nê-bu-cát-nết-sa. Nói cách khác, Đế Quốc
Ba-by-lôn là tình đoàn kết được nhân cách hoá bởi vì một người mà ra tất cả các
phần còn lại.
Khi bạn lần xuống, nó trở nên đa dạng và đa dạng hơn.
Và nhà cầm quyền càng đa dạng hơn – hãy xem điều này – bạn càng gặp nhiều nan đề
với nó. Đấy là lý do tại sao tôi đọc cho bạn nghe tuần qua về tường trình của
Alexander Tyler tuần trước rằng nền dân chủ không thể kéo dài bởi vì ngay khi
nó đa dạng đủ để cung ứng sự kiểm soát cho người dân và dân chúng thấy họ có thể
tự biểu quyết về mặt tài chánh. Họ sẽ khởi sự bằng sự ích kỷ để phá diệt nền
dân chủ.
Và vì vậy sự đa dạng của hình thức sau cùng này sẽ là
sự hủy diệt của nó. Nó sẽ không có sự liên đới của sắt, ít nhiều gì là một chế
độ quân chủ, nhưng thậm chí nó sẽ không có những gì mà đế quốc La-mã từng có.
Nó sẽ có một liên minh nhiều sắc dân tham gia vào và vì vậy có một nhược điểm cố
hữu.
Bây giờ, hình thức sau cùng của Đế quốc La-mã là có
mười ngón chân. Tôi tin Kinh Thánh đang nói cho chúng ta biết bằng mười ngón chân
và mười vị vua ở Đa-ni-ên 7 rằng hình thức sau cùng của Đế quốc La-mã sẽ có một
liên minh mười quốc gia. Đức Chúa Trời không những quăng hết mọi thứ ở xung
quanh. Nếu có mười ngón chân và mười vị vua - và nếu bạn bị sốc về điều đó, hãy
đến với sách Khải huyền và đọc trong sách Khải huyền thì bạn sẽ thấy ở chương
17 rằng có mười vị vua một lần nữa trong hình thức sau cùng này. Đức Chúa Trời
tuyệt đối nhất quán. Không hề có 9 và không bao giờ có 11. Luôn luôn là 10.
Nhưng Đức Chúa Trời có một việc trong tâm trí. Hình thức sau cùng của Đế quốc
La-mã sẽ là mười quốc gia trong liên minh.
Đồng thời, hỡi kẻ yêu dấu, điều đó chưa hề đúng với Đế
quốc La-mã trong quá khứ. Không hề. Bạn nói: "Được, bây giờ hãy đợi một phút xem, hỡi
Mục sư, Đế quốc La-mã đã qua đi rồi. Chẳng còn có Đế quốc La-mã nào nữa cả".
Nhưng hãy nghe đây, lời tiên tri nói Đế quốc La-mã sẽ xuất hiện khi hòn đá đến
đập vào pho tượng nầy rồi đầy dẫy cả Đất. Vậy, sự hoàn thành của lịch sử là sự
đến của hòn đá va đập nầy. Tôi sẽ dành cho bạn một gợi ý: ai là hòn đá chứ? Đức
Chúa Jêsus Christ. Bạn tự cung ứng cho mình phần gợi ý đi. Tôi thích khi Phaolô
nói: "Vầng đá ấy chính là Đấng Christ".
Ngài là hòn đá mà thợ xây đã loại ra.
Hãy nghe đi, Đấng Christ đến và đập vào hình thức sau
cùng của Đế quốc La-mã. Bạn nói: "Được, là thế đấy, quí vị ơi. Ngài phải xuất hiện ở
đây mà chúng ta không xem thấy Ngài, cũng chưa có Đế quốc La-mã nào còn lại".
Nhưng hãy lắng nghe tôi đi. Bạn biết đấy, chẳng hề có đế quốc nào cấp thế giới
nữa sao? Napoleon đã thử việc ấy. Hitler đã thử việc ấy mà không thể làm được. Nước
Nga đã thử việc ấy và đang ra sức làm mà chưa thành công. Hãy nghe đây, nếu sẽ
có một đế quốc vĩ đại thứ năm, bạn có thể xếp Kinh Thánh lại vì điều đó là sai
lầm.
Bạn nói: "Được, bây giờ hãy chờ một phút đi. Có phải ông nói
Đế quốc La-mã đã xuôi tay rồi trở lại, có phải không?" Đấy chính
xác là điều tôi đang nói. Thực vậy, trong sách Khải huyền, Kinh Thánh cho chúng
ta biết rằng có một con thú - ở chương 13 – xuất hiện và nó bị thương hòng chết
song nó chỗi dậy từ chỗ chết đó. Tôi tin rằng đó là hình ảnh nói tới Rome dãy
chết y như nó sẽ sống lại. Và trong hình thức sau cùng của nó, đó sẽ là mười nước.
Bạn bị sốc bởi sự kiện ấy, bạn không có đọc về khối thị trường chung rồi đó.
Có phải tôi đúng khi nói rằng mới đây hiện có mười nước
trong khối thị trường chung sao? Tôi nghĩ nước cuối cùng đã bước vào là nước thứ
mười. Giờ đây, có thể họ là 12, có thể họ là 18, có thể họ là 20, có thể họ là
9, song khi Chúa Jêsus đến, họ sẽ là 10. Và há chẳng thú vị sao, hiện nay đang
có 10 đấy.
Tôi đã có một chút kiểm tra lại về việc ấy, loại hình
làm cho tôi thấy thích thú. Willie Brent là nhân vật nổi tiếng trong vai trò Thủ
tướng của Cộng Hoà Liên Bang Đức, đã nói câu nầy: "Chúng
tôi thuộc" – tôi thích câu nầy - "về
cộng đồng mười quốc gia". Thú vị dường bao! Willie Brent đã
nói: "Khối
thị trường chung phải vòng tay ôm lấy thế giới". Thiệt là thú vị.
Tiến sĩ Malik há chẳng đã nói chính xác sao? Chúng ta đã có một liên minh trải
dài qua biển đến phần còn lại của thế giới.
Bạn biết đấy, Kinh Thánh nói rằng sẽ có một liên minh
10 nước trong kỳ sau rốt rồi từ 10 nước đó sẽ có một vị vua dấy lên. Vua ấy được
nói tới trong sách Đa-ni-ên, là cái sừng nhỏ, vua ấy được gọi là con của sự diệt
vong, vua ấy được gọi là con người tội lỗi. Chúng ta biết người là antichrist. Người
sẽ trở thành một vì vua vĩ đại cấp thế giới sẽ xuất hiện trên bối cảnh ở châu
Âu để kết hiệp mối liên minh đó, họ sẽ tham dự vào một trận chiến lớn mà Kinh
Thánh gọi là chiến trận Ạt-ma-ghê-đôn.
Cho phép tôi nói cho bạn biết một việc, hãy nhìn vào
châu Âu. Châu Âu sẽ dấy lên một lần nữa. Và tôi không rút lấy việc nầy từ ngoài
không gian kia đâu. Tôi không phải là tiên tri. Tôi chưa hề có một sự hiện thấy
trong đời mình. Tôi đã kết hôn với một người và đấy là sự kết thúc của cuộc đời
đó. Chẳng có ai nói với tôi từ trong các đám mây. Tôi chỉ là một con người
trung bình thôi, xin hãy mở quyển Kinh Thánh ra. Tôi sẽ nói cho bạn biết những
việc mà các học giả và giáo sư Kinh Thánh đã nhìn biết trong nhiều năm trời rồi.
Tôi không biết phải lý giải cách nào khác nữa. Đấy chính xác là những gì Kinh Thánh
nói. Và một khi liên minh 10 nước khoác lấy hình thức ấy, rồi antichrist lập luật
của mình, luật lệ của hắn chẳng kéo dài lâu đâu. Cho đến khi hòn đá xuất hiện
và đập vỡ toàn bộ pho tượng và làm đầy dẫy cả Đất. Và vầng đá ấy chẳng ai khác
hơn là Đức Chúa Jêsus Christ.
Khi nghĩ đến việc ấy, thì có thú vị không? Chúng ta tiếp
thu được gì chứ? Đồng thời, tôi sẽ cung ứng cho bạn toàn bộ một việc vào tuần tới
về hòn đá. Sẽ không thực hiện việc ấy tối nay. Chúng ta đã tiếp thu được gì chứ?
Chúng ta đã tiếp thu được rằng sẽ có một sự nối tiếp các sự thống trị thế giới
từ Nê-bu-cát-nết-sa cho đến sự tái lâm của Đấng Christ. Đấy là lý do tại sao Kinh
Thánh nói chiêm bao của vua có liên quan đến những ngày sau rốt.
Và cái điều thích thú đối với tôi là Cựu Ước – giờ
hãy xem điều nầy nhé – Cựu Ước không hề nói gì giữa hai yếu tố của Rome, có phải
không? Nó có hai cái chân xuống tới hai bàn chân. Nhưng Cựu Ước đã lưu ý rằng
hai cái chân là sắt song hai bàn chân là sắt trộn với đất sét. Đã có một nhược
điểm ở đây. Và tôi muốn nói rằng hình thức sau cùng thực sự là yếu ớt vì thời
điểm antichrist xuất hiện cai trị liên minh 10 nước sau cùng kia, chỉ có 3 năm
rưỡi cho tới chừng nó bị quét sạch. Đấy là điều Kinh Thánh nói. Nó sẽ kéo dài 42
tháng, vị tiên tri đã nói chỉ đúng ba năm rưỡi mà thôi.
Đó sẽ là liên minh 10 nước yếu. Và hết thảy sẽ đứng
dưới ngọn cờ của Đế quốc La-mã xưa kia. Khi tôi nghe có người nói hết thảy
chúng ta sẽ sắp hàng dưới quyền Đức Giáo Hoàng, con người, đối với tôi nghe như
chúng ta sắp tới gần rồi đó. Khi tôi nghe người ta nói Đức Giáo Hoàng là lãnh tụ
thuộc linh của thế giới, điều đó đáng sợ đấy. Ông ấy không phải đâu. Không phải
ông ấy đâu. Mọi sự hiệp lại dưới quyền đó được cai trị bởi antichrist đánh trận
nghịch cùng Đấng Christ thiết lập vương quốc riêng của Ngài. Nhưng chiến trận sẽ
không kéo dài lâu đâu. Ngài sẽ chà nát quyền thống trị của Satan và thế gian.
Việc ấy sẽ đến, quí vị ơi, và rất là phấn khích khi sống
trong một ngày mà chúng ta có thể nhìn xem mọi việc nầy ở trên đường chân trời.
Phải, tuần tới, chúng ta sẽ khám phá thêm một vài sự kiện về liên minh 10 nước
và chính xác thể nào khi phải đến với sự cuối cùng. Chúng ta hãy cùng nhau cầu
nguyện.
Lạy Cha,
con được nhắc nhớ đến sự tán thưởng long trọng của Charles Wesley, ông đã viết
thánh ca, kìa, Ngài đến với các đám mây, để cứu một lần đủ cả hàng ngàn, hàng
ngàn thánh đồ đã bị giết, họ nhóm lại ca ngợi sự đắc thắng của Ngài, ha-lê-lu-gia,
ha-lê-lu-gia, Đức Chúa Trời hiện ra trên Đất để trị vì. Bấy giờ mọi mắt xem thấy
Ngài, khoác áo choàng thật oai nghi. Những ai không lìa bỏ, đâm và đóng đinh
Ngài vào cây gỗ, than khóc sâu thẳm, than khóc sâu thẳm thì sẽ nhìn thấy Đấng
Mêsi chơn thật đó. Bây giờ, Cứu Chúa mong ước muốn xuất hiện trong sự oai nghi
trang trọng. Hết thảy các thánh đồ bị người ta chối bỏ giờ đây sẽ gặp Ngài trên
chốn không trung, ha-lê-lu-gia, ha-lê-lu-gia, nhìn thấy ngày của Đức Chúa Trời
hiện ra.
Và khi Wesley
viết bài thánh ca nầy: "Hỡi Nhân Loại, Chúng Ta Hãy Tôn Thờ Ngài” (Men,
Let Us all Adore Thee). Ngôi đời đời của Ngài ngự trên cao, Đấng Cứu Thế nắm lấy
quyền lực và sự vinh hiển. Hãy xưng nhận vương quốc thuộc Ngài. Xin hãy đến mau
chóng, xin hãy đến mau chóng, ha-lê-lu-gia, Lạy Chúa xin hãy đến.
Lạy Cha,
khi chúng con nhìn thấy các đám mây vầy lại trong những ngày sau cùng của lịch
sử con người, trong nhận thức của chúng con ít nhất là có việc ấy. Khi chúng
con nhìn biết chẳng có gì đứng giữa chúng con và sự tái lâm của Ngài, khi chúng
con chờ đợi cái ngày chúng con được cất lên trước mọi hình thức sau cùng của thế
gian sẽ diễn ra, chúng con chẳng làm chi được trừ ra được đầy dẫy với sự tán
thưởng. Chúng con cảm tạ Ngài, Lạy Chúa, khi chúng con trông mong những ngày ấy,
chúng con biết rằng Ngài cất chúng con ra khỏi đất nầy để ở với chính mình Ngài.
Và lạy Chúa, chúng con cầu xin rằng chúng con sẽ có cùng tấm lòng như Phierơ đã
có, và tấm lòng ấy như sau: "Khi nhìn thấy mọi sự nầy sẽ diễn ra. Anh em cần
phải sống như thế nào chứ?" Và rồi ông tiếp tục nói chúng con phải sống
nên thánh và tin kính trong cách ăn ở của chúng con. Và, lạy Chúa, nếu chúng
con thực sự nhìn biết Ngài đang tới đến, ồ, đời sống chúng con phải thay đổi hầu
cho chúng con sẽ xứng đáng khi chúng con gặp Ngài mặt đối mặt.
Và lạy
Chúa, xin đầy dẫy lòng chúng con với ơn thương xót, với tình yêu thương và với
ước ao muốn chìa tay ra với những người ở chung quanh chúng con, họ chưa nhìn
biết Ngài. Lạy Chúa, chúng con muốn giống như Giăng khi ông nhìn biết mọi sự nầy
là thật, ông nói rằng điều đó là ngọt ngào trong miệng của ông song nó cay đắng
nơi tì vị ông. Ngọt vì Ngài có quyền cai trị, ngọt vì chúng con khao khát muốn
nhìn thấy mặt Ngài, nhưng đắng là vì chúng con biết đấy là một ngày buồn rầu
dành cho những ai xây lưng họ về phía Ngài. Chúng con chẳng mong muốn điều đó với
ai cả. Chúng con biết rõ đấy là tấm lòng của Ngài cũng như Ngài không bằng lòng
người nào bị hư mất. Ngài là Đức Chúa Trời là Đấng muốn mọi người đều được cứu và
đạt tới sự thông biết lẽ thật.
Và lạy
Chúa, khi chúng con sống trong thời buổi nầy và chúng con trông mong sự đến của
Ngài, dù là một phút nữa hay hơn thế, chúng con không biết. Nhưng nguyện Chúa
giúp chúng con sống giống như thể điều đó xảy ra vào ngày mai. Để yêu thương,
rao giảng, chia sẻ và kéo mọi người đến với chính mình Ngài trong giờ trọng thể
đó để có thể nhìn thấy Ngài mặt đối mặt với hết thảy những ai yêu mến Ngài và ở
trong vương quốc đời đời của Ngài. Với sự tán thưởng đó, chúng con ngợi khen
Ngài trong danh của Đấng Christ. Amen.
Nhận xét
Đăng nhận xét