Sự Đến Của Nhà Vua
Sự Đến Của Nhà Vua
Mỗi trước giả Tin lành trong
Tân Ước để thì giờ ra bàn bạc về việc Đức Chúa Jêsus Christ vào thành
Giêrusalem. Đó là một khoảnh khắc trọng đại. Đó là thời điểm ứng nghiệm lớn lao,
vì nhiều lẽ thật mà các vị tiên tri đã nói về Đấng Mêsi, đã tập trung sự ứng
nghiệm của chúng nhằm vào ngày đó.
Giăng viết trong chương 12:
"Qua
ngày sau, có một đám dân đông đến đặng dự lễ, biết Đức Chúa Jêsus lên thành
Giê-ru-sa-lem, bèn lấy những lá kè ra đón Ngài, và reo lên rằng: Hô-sa-na! Chúc
phước cho Đấng nhân danh Chúa mà đến, là Vua của Y-sơ-ra-ên!"
Đó là một ngày của sự hân hoan. Đó là một ngày vui vẻ. Đó
là ngày mà các vị tiên tri đã nói tới và dân chúng đã chờ đợi ngày ấy từ lâu: sự
đến của nhà vua được hứa cho.
Và chúng ta ghi nhớ ngày ấy
khi chúng ta bắt đầu tuần lễ đặc biệt này. Nhưng tôi lấy làm lạ, liệu chúng ta
có thực sự hiểu ý nghĩa của ngày ấy hay không nữa! Và để giúp đỡ cho chúng ta,
chúng ta hãy nhìn lại chương 9 của sách Đaniên. Hãy mở Kinh thánh của bạn ra ở
sách Đaniên chương 9, và sáng nay chúng ta sẽ nhìn vào từ câu 20 đến câu 27. Một
phân đoạn mà tôi tin là lời tiên tri đáng kinh ngạc nhất, phức tạp, chi tiết,
sâu rộng từng được ghi lại trong Kinh Thánh. Một lời tiên tri kỳ diệu đến nỗi
Sir Isaac Newton đã nói:
"Chúng ta có thể khoanh tròn lẽ thật của Cơ đốc giáo chỉ một câu nói tiên
tri nầy mà thôi". Và tôi nghĩ ông ấy đã đúng.
Cựu Ước có nhiều điều nói về
Đấng Mêsi. Chỉ những tước hiệu và danh xưng được gán cho Ngài trong Cựu Ước cho
chúng ta biết một vấn đề rất lớn lao. Ngài là Đấng Xức Dầu ở Thi Thiên 2:2;
Ngài là Nhánh ở Xachari 3:8; Người là Quan Tướng Đạo Binh ở Giôsuê 5:4; là Con Trẻ
ở Ê-sai 9:5; Ngài là sự ước ao của các nước ở Aghê 2:7; một lần nữa Ngài là Cha
đời đời ở Êsai 9:5; Ngài là Nền ở Êsai 28:16; Ngài là dòng suối ở Xa-cha-ri 13:1.
Êsai gọi Ngài, ở 60:1, Sự
Vinh Hiển của Đức Chúa Trời; Thi thiên 48:14 gọi Ngài là Đấng hướng dẫn; Ngài
là Đấng Thánh của Y-sơ-ra-ên, được nói đến trong Ê-sai 41:14; Ngài là sừng cứu rỗi
ở Thi thiên 18; Ngài là Đức Giê-hô-va ở Ê-sai 26:4; Ngài là Đấng cai trị ở
Mi-chê 5:1; Ngài là Đấng lập luật ở Êsai 33:22; Ngài là Ðấng Mê-si của Đa-ni-ên
9; Ngài là Đấng Toàn Năng của Êsai 9:5; Ngài là Đấng luyện lọc ở Malachi 3:3;
Ngài là Đấng Cứu Chuộc của Êsai 60:16; Ngài là thợ luyện ở Malachi 3:3; là nơi ẩn náu của Êsai 25:4;
Ngài là Đấng công bình ở Giê-rê-mi 23:6; là Hòn Đá ở Phục truyền Luật lệ Ký
32:15; là Cái Chồi ở Êsai 11:1; Ngài là Dòng Dõi của người nữ ở Sáng thế ký
3:15; là Đầy Tớ ở Êsai 42; Ngài là Đấng Chăn; Ngài là Si-lô; Ngài là Con của Sự
công bình ở Ma-la-chi 4:2; Ngài là Ðấng Lạ Lùng, Đấng Mưu Luận ở Êsai 9:5.
Ngoài những tước hiệu và
danh xưng này, các vị tiên tri nói đến Ngài là Vua. Và tôi tin rằng chúng ta nhìn
thấy Ngài rất sắc nét là Vua trong phân đoạn này, ở đây Đaniên gọi Ngài, câu
25, là Đấng Mêsi, là Vua. Thuật ngữ thật là tuyệt vời, được sử dụng nói tới
Sau-lơ khi ông được xức dầu làm vua, được sử dụng ở đây nói tới Đấng sẽ đến là con
trai của Đa-vít, là Đức Chúa Jêsus Christ.
Và các tiên tri của Cựu Ước,
khi nhìn thấy Ngài bằng nhiều cách thức và qua nhiều tước hiệu, họ tập trung đặc
biệt vào Ngài như là Nhà Vua. Vì chữ Mê-si có nghĩa là được xức dầu. Và
Đa-ni-ên, trong lời tiên tri đặc biệt này bởi Thánh Linh Đức Chúa Trời đã gán
cho Ngài qua trung gian của thiên sứ Gáp-ri-ên, tập trung vào dáng dấp vua chúa
của Đức Chúa Jêsus Christ. Và tôi muốn chúng ta nhìn vào lời tiên tri này vì nó
được đánh dấu – tôi muốn nói là nó đã có một mối quan hệ đã được đánh dấu với
những gì chúng ta biết là Chúa nhật Lễ Lá hoặc sự vào thành đắc thắng của Đức
Chúa Jêsus Christ.
Bây giờ, cho phép tôi cung ứng
cho bạn lai lịch. Xứ Giuđa đã sa vào tội lỗi và theo đuổi tội lỗi với một sự dữ
dội. Vương quốc phía Nam của vương quốc bị chia hai của Israel đã nối theo sau
trong cùng một làn đường với vương quốc phía Bắc rồi đi đến cùng một kết quả
không thể tránh khỏi, bị bắt làm phu tù và làm nô lệ. Và sự phán xét của Đức
Chúa Trời đã giáng xuống. Và khi bạn đến với cuộc đời của Đaniên, dân sự của Đức
Chúa Trời đã ở lâu dài trong xứ Ba-by-lôn.
Nê-bu-cát-nết-sa đã đến
chinh phục xứ, chiếm lấy thành rồi bắt lấy dân sự như chiến lợi phẩm. Chính
trong bối cảnh ấy Đaniên đã nổi bật lên. Ông được đưa đi trong lần lưu đày thứ
nhứt trong ba cuộc lưu đày, khởi sự vào năm 605TC và kết thúc vào năm 586TC. Và
Đaniên đi vào nhóm 605TC. Ông là một trong những nhà lãnh đạo trẻ. Ông là một
trong những quý tộc trẻ tuổi, một trong những người có tiềm năng mà họ muốn đưa
tới đó rồi đào tạo theo văn hoá của người Ba-by-lôn. Và bạn sẽ nhớ ra rằng họ
đã có một thời nhọc nhằn với ông bởi vì ông từ chối không chịu bỏ đi sự mình cam
kết với Đức Chúa Trời.
Nhưng vì tầm vóc phẩm cách,
đức tính của linh hồn ông, ông đã dấy lên thành thủ tướng của xứ đó, mặc dù ông
là một người Do-thái và là một phu tù ở trong xứ. Nhưng trong chương 9, bấy giờ
là năm 537TC. Họ đã sống ở đó một thời gian rất dài. Đaniên là một cụ già. Cảnh
phu tù cho người Ba-by-lôn không còn nữa - tôi muốn nói rằng vương quốc của người
Ba-by-lôn không còn đứng ở chỗ của nó nữa và thay thế cho nó, là sự trị vì của
Mê-đi Ba-tư.
Như vậy, Đaniên đã sống lâu
hơn đế quốc Babylon. Lúc bấy giờ ông hiện đang ở vào năm đầu tiên của đế quốc
Mê-đi Ba-tư. Đế quốc nầy do Si-ru cai trị, là người mà ai cũng biết là Đa-ri-út.
Và Đaniên vẫn còn nắm lấy địa vị cao tột; ông vẫn còn ở trong chỗ đẳng cấp cao ở
giữa xã hội dân Ngoại. Và khi bạn tiếp cận phần đầu của chương 9, ở đó cho
chúng ta biết rằng: "Năm đầu Đa-ri-út con trai A-suê-ru, về dòng
người Mê-đi, đã được lập làm vua trị nước người Canh-đê". Trong
năm đầu sự trị vì của ông, Đaniên đang đọc sách và ông đang đọc một trong các
cuộn giấy nầy, và sự việc cho thấy ông đang đọc sách Giêrêmi.
Và khi ông đọc sách Giêrêmi,
ông được nhắc nhở rằng cảnh phu tù của dân sự ông sẽ là 70 năm, như đã nói ở trong
câu 2. Thành Giê-ru-sa-lem phải bị hoang vu trong suốt 70 năm. Rồi nương vào chỗ
Đức Chúa Trời đã tính toán, nếu thực sự Ngài đã khởi sự vào lần lưu đày vào năm
605TC, thì Đaniên biết rõ đã gần tới lúc hoàn tất 70 năm rồi. Vì vậy, khởi sự ở
câu 3, ông đưa ra một lời cầu nguyện. Và ông nguyện rằng Đức Chúa Trời sẽ đem lại
phần kết thúc cho sự sửa phạt và Đức Chúa Trời sẽ làm như Ngài đã hứa trong lời
tiên tri của Giê-rê-mi, lập nó trong 70 năm và không hơn nữa, rồi kết thúc nó
và gạt bỏ nó đi.
Và tấm lòng ông đầy dẫy với
hy vọng và mong đợi cho việc tái thiết lại thành Giê-ru-sa-lem cho tương lai của
dân sự ông và tương lai của đền thờ Đức Chúa Trời. Vì dân sự vẫn còn sống trong
tình trạng ấy, dân tà giáo vẫn ở sống trong đất của họ, thành thánh của họ là một
đống đổ nát và đền thờ của họ bị tàn phá hoàn toàn. Và trong phân nửa đầu của
chương, ông dốc đổ lòng mình ra với Đức Chúa Trời, và ở phân nửa thứ hai, ông nhận
được câu trả lời thật đáng kinh ngạc, rất là dè dặt.
Chúng ta sẽ nhìn vào câu trả
lời, bắt đầu từ câu 20, và chúng ta hãy nhìn vào phân đoạn Kinh Thánh của chúng
ta. Và chúng ta sẽ chỉ ra ba điểm chính để giúp chúng ta theo dõi lần lượt. Thứ
nhất, mọi hoàn cảnh của Đaniên, mọi cảnh ngộ của Đa-ni-ên: "Ta còn đang nói và cầu nguyện, xưng tội lỗi ta
và tôi lỗi dân Y-sơ-ra-ên ta và ta dâng lời nài xin trước mặt Giê-hô-va Đức
Chúa Trời ta, vì núi thánh Đức Chúa Trời ta, vậy ta còn nói trong khi cầu
nguyện".
Và chúng ta dừng lại ở đó.
Đây là hoàn cảnh: cầu nguyện.
Không phải là cảnh bất thường đối với Đaniên. Bạn sẽ nhớ rằng ông có chiếu chỉ
truyền cho ông không được cầu nguyện, trừ ra những người được quy định cho cầu
nguyện trong tôn giáo của người Ba-by-lôn. Và ông sẽ không thề hứa với việc ấy,
ông đã mở cửa sổ ra, như ông luôn làm, và đã cầu nguyện theo cách ông luôn cầu
nguyện với Đức Chúa Trời mà ông kính mến. Rồi kết quả là, bị ném vào hang sư tử.
Và vì vậy chúng ta không ngạc nhiên khi thấy ông đang cầu nguyện. Và đó là một
lời cầu nguyện chủ lực. Tôi nghĩ đó là cái nhìn sâu sắc nhất về sự cầu thay của
một thánh đồ về bất kỳ lời cầu nguyện nào trong toàn bộ Cựu Ước.
Rồi trong câu 20, chúng ta
được tóm tắt lại với bốn động từ tiếng Hy-bá-lai, mỗi từ được sử dụng trong lời
cầu nguyện ở câu 3 đến câu 19. Và tất cả chúng đều được kết hợp với nhau theo tư
thế tóm gọn ở câu 20: “Ta còn đang nói", tức
là nói về mối giao thông có trong lời cầu nguyện. Đó là nói, đó là tương giao, đó
là chia sẻ tấm lòng, đó là mối tương giao với Đức Chúa Trời.
"Xưng tội lỗi
ta", và có phương diện xưng tội trong lời cầu
nguyện. "Và tội lỗi dân Y-sơ-ra-ên ta, và ta dâng lời nài
xin", có liên quan đến việc đem gánh nặng của tấm
lòng đến cho Đức Chúa Trời. Và hết thảy chúng đều được mang đến trong động từ cầu
nguyện. Và thế là chúng ta bắt gặp ông trong sự cầu nguyện bởi vì ông biết thì
giờ phải được kết thúc cho việc sống ở đó. Ông có thể cảm nhận được rằng Đức
Chúa Trời sẽ làm một việc thật tuyệt vời vì Đức Chúa Trời luôn luôn giữ lời của
Ngài và đưa dân sự Ngài trở về, và đó là gánh nặng của tấm lòng ông.
Và ông không có một ham muốn
ích kỷ nào cả. Ở phần cuối câu 20, câu ấy nói cho chúng ta biết rằng ông đang cầu
nguyện cho hòn núi thánh của Đức Chúa Trời. Hòn núi thiêng liêng có lẽ liên
quan đến hòn núi có đền thờ ở đó; hòn núi có thành phố trên đó; địa điểm có thành
yêu dấu của Đức Chúa Trời, thành Giêrusalem vinh hiển. Chính vì đó là thành của
Đức Chúa Trời, và vì đó là dân sự của Đức Chúa Trời, và vì đó là vương quốc của
Đức Chúa Trời, và vì đó là mục đích của Đức Chúa Trời, ý muốn của Đức Chúa Trời
và tiếng tăm của Đức Chúa Trời đã ở chỗ nguy hiểm mà ông đã cầu nguyện.
Ở phần cuối của câu 17, vấn
đề được nói rất rõ ràng rằng chính vì cớ Chúa. Và rồi trong câu 19: "Hỡi Đức Chúa Trời tôi! vì cớ chính Ngài, xin
chớ trì hoãn; vì thành Ngài và dân Ngài đã được xưng bằng danh Ngài!" Về
mặt cơ bản sự cầu nguyện của con người nhắm vào việc làm vinh hiển cho danh
thánh của Đức Chúa Trời. Và vì vậy, đó là khuôn mẫu của sự cầu nguyện.
Và thế là chúng ta thấy ông
đang quì trên hai đầu gối trong sự cầu nguyện. Và từ các hoàn cảnh của
Đa-ni-ên, chúng ta chuyển qua sự xuất hiện của Gáp-ri-ên, nhân vật chính thứ
hai trong phân đoạn này của Kinh thánh. Trong câu 21 chép rằng:
"vậy
ta còn nói trong khi cầu nguyện",
ông vẫn chưa xong sự cầu nguyện của mình: "nầy, Gáp-ri-ên, người mà ta đã thấy trong sự
hiện thấy lúc đầu tiên, được sai bay mau đến đụng ta độ lúc dâng lễ chiều hôm".
Khi ấy là 3 giờ chiều, thời điểm dâng của lễ ban chiều lên cho Đức Chúa Trời. Một
thời điểm khi, trở lại trong xứ Israel khi đền thờ đang hoạt động, một con
chiên con sẽ bị giết vì tội lỗi của dân sự và được dâng lên như một của lễ chuộc
tội cho Đức Chúa Trời. Một thời điểm thích hợp cho việc xưng tội, và đó là phần
chính trong lời cầu nguyện của ông - của ông và tội lỗi của dân sự ông.
Và thời điểm ấy vốn sâu sắc
trong tấm lòng của một người Do-thái tin kính. Khi ông đang quì gối vào thời điểm
ông biết đã được biệt riêng trong mọi truyền thống thời tuổi trẻ của mình gợi lại
tính cần thiết cần phải có của của lễ chuộc tội. Và ông đang dốc đổ tội lỗi mình
và cầu xin sự tha thứ của Đức Chúa Trời vì ích cho riêng ông và vì ích cho dân sự
của ông. Và chính giờ phút đó Gáp-ri-ên đụng đến ông. Và Gáp-ri-ên đã đụng đến
ông, vì ông chìm sâu trong sự cầu nguyện, ông cần phải bị làm cho thức tỉnh.
Bây giờ, bạn để ý Kinh
Thánh gọi người ấy là Gáp-ri-ên. Nói như thế không phải là nói cho chúng ta biết
rằng Ngài không phải là một thiên sứ. Thực vậy, Ngài là thiên sứ Gáp-ri-ên,
nhưng Ngài đã đến trong hình thức một con người. Ngài đã từng xuất hiện với
Đaniên ở sông U-li. Và điều đó kết nối ông với lần xuất hiện đó, chỗ mà Ngài được
mô tả trong hình thức con người. Và đó là lý do tại sao chính Gáp-ri-ên ấy, là một
người mà tôi đã nhìn thấy trong một sự khải thị lúc đầu.
Chữ Gáp-ri-ên [Gabriel] kết thúc với danh xưng của Đức Chúa Trời. Thực
vậy, El, E-L, liên quan không những với Đức Chúa Trời,
mà còn với Đức Chúa Trời Ngài là một Đức Chúa Trời mạnh sức nữa. Và phần đầu
tiên của danh xưng, có người nghĩ có liên quan với tôi tớ, có người nghĩ nhấn mạnh
đến chỗ mạnh sức. Và vì thế nếu chúng ta muốn kết hợp hết thảy chúng lại, có lẽ
chúng ta sẽ có được một ý tưởng rất hay về Ngài là ai. Ngài là tôi tớ, Ngài là thiên
sứ mạnh sức của Đức Chúa Trời mạnh sức. Và Gáp-ri-ên đặc biệt được biệt riêng
ra làm thiên sứ sứ giả, vì Ngài là Đấng đến báo cho Xachari sự ra đời của người
tiền khu Giăng Báp-tít. Ngài là Đấng đến báo cho Mary trước tiên về chính mình
Đấng Mêsi, là Đức Chúa Jêsus Christ. Và ở đây Ngài đến với Đaniên với một sứ điệp
lạ thường.
Và Ngài đã đụng đến ông.
Câu 22: "Người
dạy dỗ ta và nói cùng ta rằng: Hỡi Đa-ni-ên, bây giờ ta ra để ban sự khôn ngoan
và thông sáng cho ngươi".
Ngài phán: "Hỡi Đaniên,
ta đã đến vì một việc. Để giúp ông hiểu biết. Để giúp ông có khả năng suy nghĩ
với sự hiểu biết, những gì Đức Chúa Trời đã phán dạy".
Câu 23:
"Lời
phán dặn đã ra từ khi ngươi bắt đầu nài xin".
Tôi tin Gáp-ri-ên là một trong những thiên sứ đang bay lượn, giống như chúng ta
thấy seraphim bay lượn xung quanh ngôi trong Ê-sai 6. Và họ đang bay lượn ở đó,
chờ đợi cho đến khi nào có mạng lịnh ra từ ngôi. Và ngay khi lệnh truyền đến, họ
liền được phái đi.
Và lời phán dặn đã ra, Ngài
phán: "Khi ngươi bắt đầu nài xin". Chẳng
có một sự chần chừ nào trên thiên đàng. Khi bạn cầu nguyện, Đức Chúa Trời ban lịnh
truyền. Và Ngài đã khiến phải đến một cách nhanh chóng. "Và ta đến để tỏ lời đó cho ngươi, vì ngươi đã
được yêu quí lắm". Ồ,
đúng là một việc thật tuyệt vời vì thiên sứ đó nói cho Đaniên biết. Tôi giả sử,
mỗi một người chúng ta, là Cơ đốc nhân, ao ước rằng chúng ta có thể có loại khẳng
định về cách thức thiên đàng cảm nhận về chúng ta. Nếu bạn từng phấn đấu với
nghi ngờ ở trong lòng về việc Đức Chúa Trời có quan tâm hay không, điều đó sẽ
được khẳng định một ngày kia với Gáp-ri-ên hiện ra để loan báo chúng ta được
yêu dấu trong thiên đàng là dường nào. Bạn có thể tưởng tượng nổi rung động thể
ấy với Đaniên.
Đồng thời, từ ngữ Hy-bá-lai
“được yêu quí lắm” có nghĩa là người của
sự ước ao, hoặc một người đáng mong muốn, hay một người rất quí rất báu. Đức
Chúa Trời vận hành nhanh chóng vì kẻ yêu dấu của Ngài. Không bao lâu sau đó ông
bắt đầu cầu nguyện để thiên đàng bước vào hành động và các thiên sứ đã bay lượn
với câu trả lời.
Rồi ở phần cuối của câu 23,
ông nói: "Vậy
hãy suy nghĩ sự đó và hãy hiểu biết sự hiện thấy". Có
phải bạn biết rõ câu nói ấy có nghĩa gì không? "Hãy chú ý. Ta đã đến từ một con đường thật dài và
thiên đàng đã sai ta thật nhanh như có thể được vì ngươi là một người của sự ước
ao. Người vốn quí báu đối với Đức Chúa Trời và lời phán dặn đã ra từ ngai. Bây
giờ, hỡi Đaniên hãy lắng nghe ta, và hãy chú ý nhận lấy sứ điệp".
Nầy, đó phải là một việc rất
quan trọng. Và tôi đứng ở đây thay mặt Gáp-ri-ên nói cho bạn cùng một việc: hãy
chú ý. Đây là một lời tiên tri phức tạp, lạ lùng và hấp dẫn. Và thế là nhân vật
đầu tiên mà chúng ta gặp gỡ là Đaniên. Chúng ta nhìn thấy mọi cảnh ngộ của Đaniên.
Thế rồi, chúng ta gặp gỡ một nhân vật khác, một nhân vật mà chúng ta gặp lần thứ
hai là Gáp-ri-ên và chúng ta nghe từ Gáp-ri-ên khi Ngài xuất hiện. Rồi bây giờ
chúng ta gặp nhân vật chính thứ ba và thậm chí chúng ta không nghe thấy tên của
Ngài song chính là Ngài. Sự truyền đạt của Đức Chúa Trời, sự truyền đạt của Đức
Chúa Trời.
Rồi từ câu 24 đến câu 27, Đức
Chúa Trời phán rất long trọng, rất long trọng. Bây giờ, câu 24 là chìa khóa cho
mọi sự. Và tôi muốn bạn lần theo khi chúng ta nhìn vào các thuật ngữ ở đây. "Bảy
mươi tuần lễ" hoặc đúng hơn, 70 lần bảy: "định trên dân ngươi và thành thánh ngươi". Hãy
dừng lại ở đó. Bạn thấy đấy, Đaniên đang nói: "Ôi, lạy Chúa, khi nào Ngài lo đến dân sự tôi, khi
nào Ngài sẽ ban cho họ được yên nghỉ về mặt thuộc linh và thuộc thể, khi nào
thì họ sẽ nhận lại đất đai và vương quốc của họ? Khi nào thì họ sẽ trở thành
dân sự của Đức Chúa Trời trở lại? Khi nào thì thờ phượng sẽ trở lại như nó vốn
có? Khi nào đền thờ sẽ trở lại như nó vốn có, còn nơi thánh và nơi chí thánh? Chừng
nào, lạy Chúa, có gần rồi chưa? Cần phải mau mau chứ? lạy Chúa, xin tha thứ cho
tội lỗi chúng tôi", ông đang nói: "và làm sạch chúng tôi khỏi mọi
sự ô uế của chúng tôi và bày tỏ ra vương quốc vinh hiển của Ngài?"
Rồi Ngài phán: "Có bảy mươi tuần lễ định trên dân ngươi và
thành thánh ngươi”.
Bây giờ, từ ngữ được xác định rất là quan trọng. Đây là một từ giả sử là một kế
hoạch toàn diện, một chương trình của Đức Chúa Trời. Từ ngữ sát nghĩa có nghĩa dứt
bỏ, cắt bỏ. Và giống như thể bạn có dòng lịch sử và Đức Chúa Trời chỉ cắt bỏ một
phần rồi dứt bỏ nó. Đức Chúa Trời phán qua Gáp-ri-ên: "Ta sẽ cắt bỏ một phần của lịch
sử và mô tả nó cho ngươi thấy. Nó được quyết là phần mà ta sẽ xử lý với dân
Y-sơ-ra-ên và thánh địa Giê-ru-sa-lem. Đây là lịch sử của họ được cắt bỏ đối với
phần còn lại của dòng chảy của sự đời đời".
Bấy giờ, Ngài phán sáu điều
sẽ được hoàn thành trong thời kỳ này, sáu điều. Thứ nhứt là ba điều tiêu cực và
thứ hai là ba điều tích cực. Việc thứ nhứt, trong thời kỳ đặc biệt này cắt bỏ
phần thời gian và cõi đời đời, trong đó Đức Chúa Trời sẽ xử lý với dân sự của Ngài
để hoàn tất các mục tiêu của Ngài, việc thứ nhứt Ngài sẽ làm trong thời kỳ ấy là
chấm dứt sự quá phạm; sát nghĩa là kềm chế sự quá phạm một cách vững chắc. Nói
cách khác, đưa tội lỗi đặt dưới quyền khống chế thiêng liêng. Ngài sẽ đặt tội lỗi
ở dưới quyền khống chế thiêng liêng. Và nói chung, tôi nhìn thấy tội lỗi ở đó.
Tội lỗi bấy giờ đang lan tràn; nó tự do giống như thể dường như nó đang vượt quá
bất kỳ loại ranh giới nào. Song nó sẽ bị chặn lại, nó sẽ bị đặt dưới quyền kiểm
soát thiêng liêng. Và sẽ như thế trong thời kỳ Đức Chúa Trời đang dứt bỏ nầy.
Thứ hai, để lập một sự kết
thúc cho tội lỗi. Và ở đây bạn xử lý với tội lỗi thật là cụ thể, nói chung, ở
chỗ mà việc thứ nhứt phải làm với tội lỗi. Không những Ngài sẽ kiềm chế tội lỗi
nói chung, mà Ngài còn đặt nó dưới sự kiểm soát thiêng liêng, nhưng Ngài sẽ đặt
dấu chấm hết cho tội lỗi một cách cụ thể. Và động từ đó được sử dụng ở những
nơi khác trong Cựu Ước với sự tham khảo đến sự phán xét. Ngài sẽ đánh giá tội lỗi
của từng người về tội lỗi của mỗi người, cũng như đặt tội lỗi ở dưới sự khống
chế thiêng liêng.
Rồi thứ ba, Ngài sẽ làm ra
sự phục hòa hay sát nghĩa, capar, Ngài
sẽ che đậy tội ác. Bấy giờ, cả ba việc ấy đều phải làm với điều ác: quá phạm, tội
lỗi và tội ác. Đức Chúa Trời sẽ kết thúc mọi việc ấy. Đức Chúa Trời sẽ đưa
chúng đến phần tận cùng của chúng. Ngài sẽ dứt bỏ tội lỗi. Trong khoảng thời
gian này, dứt bỏ và rút ra khỏi lịch sử, Đức Chúa Trời sẽ kết thúc tội lỗi, quá
phạm và tà ác. Và đó chính là những việc đưa Y-sơ-ra-ên vào cảnh phu tù trong
chỗ thứ nhứt.
Có ba mục đích phụ trong thời
kỳ cắt bỏ lịch sử nầy. Thứ nhất, để mang lại sự công bình đời đời; điều đó là
tích cực. Sau khi đã xử lý với tội lỗi, sát nghĩa, Ngài sẽ mang lại sự công
bình cho mọi thời đại, sự công bình sau cùng, sự công bình đời đời.
Thứ hai, đóng ấn sự khải thị
và lời tiên tri. Và những gì cần phải làm với là kết thúc sự mặc khải, không
còn có mặc khải nào nữa. Không còn có sự khải thị nào vì lý do đơn giản: chúng
ta sẽ bước vào một sự công bình đời đời và chúng ta sẽ biết như chúng ta cần phải
biết. Chúng ta sẽ chẳng còn cần đến sự khải thị nữa. Sẽ không còn có thêm một sự
mặc khải nào nữa cả, chẳng còn cần đến bất kỳ lời tiên tri nào nữa.
Và sau cùng, để xức dầu cho
người thánh khiết nhất. Sát nghĩa, phân đoạn Kinh Thánh nói tới việc xức dầu
cho Đấng rất thánh. Và có lẽ điều nầy có liên quan đến trạng thái đời đời. Sự
thánh khiết đời đời của trời mới đất mới đời đời với thành Giê-ru-sa-lem đời đời
của nó, trong đó là một đền thờ đời đời, là nơi chí thánh đời đời, trong đó là
một ngai đời đời ngự trên đó là một Đức Chúa Trời đời đời. Mọi sự nầy đều là
thánh theo cách đời đời. Ngài sẽ kết thúc tội lỗi và mang đến sự thánh khiết đời
đời hết thảy trong thời kỳ ngắn ngủi nầy được cắt bỏ ra khỏi lịch sử. Chắc là
tôi đang gợi ý với bạn rằng ba người đầu tiên trong số những người bị xử lý với
tội lỗi thực sự đã được thực hiện tại thập tự giá của Chúa Jêsus Christ? Đấy là
chỗ mà tội lỗi bị chinh phục. Tuy nhiên sự trọn vẹn của việc chinh phục đó đang
chờ đợi Sự Trở Lại lần thứ hai khi ba điều phụ đã được ứng nghiệm.
Bây giờ, chúng ta hãy nhìn
vào chính thời kỳ đó. Vấn đề nói ra ở phần đầu của câu, 70 lần 7. Đây không phải
là cụm từ nói tới ngày và tháng hoặc năm. Chúng ta không thể biết cụm từ ấy có
nghĩa gì trừ phi chúng ta nhìn vào văn mạch. Và tôi nghĩ văn mạch chỉ ra rất rõ
ràng cho chúng ta thấy rằng đây là 70 – bảy mươi năm hay tuần năm, thời kỳ 7
năm, chớ không phải 7 thời kỳ tính theo ngày vì một vài lý do.
Chương 9 câu 2, Đaniên đang
nói bằng thuật ngữ nói tới số năm. Thậm chí ông nhắc tới 70 năm ở đó. Và người
Do-thái cũng thường có các tuần năm. Mỗi năm thứ bảy là năm Sa-bát, giống như từng
ngày thứ bảy là ngày Sa-bát. Vậy, chúng thường nói tới các tuần năm. Và mỗi 7 lần
7 là đến năm thứ 50, là năm Sa-bát hay Năm Hân Hỉ. Đồng thời, thời điểm khác
duy nhứt Đaniên sử dụng cụm từ “lần
7” đó, Shabuoth, ở
trong chương 10. Và ở đó, ông muốn nó đề cập đến những ngày ông sử dụng từ ngữ
Hy-bá-lai nói tới những ngày để biết chắc chúng ta không quên. Song ở đây ông
không sử dụng từ ngữ ấy nói tới ngày và dường như ông in trong trí mình là năm.
Có một lý do khác nữa. Trong II
Sử ký 36:21 – chúng ta không cần phải mở câu ấy ra –
người Do-thái, được nói ở đó, đã bị dời đi khỏi xứ để đất sẽ yên nghỉ và sẽ là
đền bù cho những ngày Sa-bát hay năm Sa-bát mà đất đã bị vi phạm. Nói cách khác,
người Do-thái đã không giữ năm Sa-bát để cho đất tự nó bồi bổ lại. Họ làm tròn
Năm Hân Hỉ. Họ đã vi phạm các năm Sa-bát trong sự tham lam và ham muốn kiếm tiền
của họ rồi cứ khiến cho đất phải sản xuất và sống cuộc sống theo cách họ mong
muốn. Họ bất chấp Đức Chúa Trời và họ thất bại không giữ được năm thứ bảy làm
năm Sa-bát.
Và II Sử ký 36:21 chỉ ra rằng
Đức Chúa Trời sẽ khiến họ phải trả giá bằng cách đưa họ ra khỏi xứ ấy cho tới
chừng từng năm Sa-bát một trong số đó đã được đền bù. Và nếu họ đã sống ở ngoài
xứ những 70 năm, thì đã có 70 năm Sa-bát cần phải được đền bù. Và nếu có 70 năm
Sa-bát cần được đền bù, thế thì đấy là 70 năm Sa-bát trong toàn bộ số năm phải
tương đương với 490 năm. Vì vậy, thời kỳ 490 năm, năm Sa-bát đã bị xem thường trong
tâm trí của Đức Chúa Trời và họ phải trả giá cho mỗi năm Sa-bát bị vi phạm bằng
cách chịu đựng 70 năm làm phu tù. Và bởi vì đấy là cơ sở cho tình trạng phu tù
của họ, Chúa phán rằng thêm 70 thời kỳ 7 năm được quyết định giáng trên bạn.
Tôi không quyết với bạn đâu. Sẽ có thêm 70 năm nữa và một thời kỳ 490 năm. Bây
giờ hãy nghe đi, đây là một tuyên bố cực kỳ to lớn. Đức Chúa Trời phán: "Hãy xem, sẽ là 490 năm bị cắt
bỏ ra khỏi lịch sử, trong đó ta sẽ kết thúc tội lỗi và mang lại sự công bình và
sự thánh khiết đời đời".
Giờ đây, bạn nói: "Nào, nếu chúng ta hình dung ra
lúc sự ấy bắt đầu, chúng ta có thể hình dung ra lúc nào nó kết thúc". Chúng
ta không khó phải hình dung đâu, điều đó ở trong câu kế đó. Câu 25: "Ngươi khá biết và hiểu rằng”, một lần nữa, Ngài nhắc cho ông nhớ phải chú ý: “từ khi ra lịnh tu bổ và xây lại Giê-ru-sa-lem”. Đấy
là chỗ thời điểm đó khởi sự, từ lúc ban ra mạng lịnh phục hồi và tái thiết lại
thành Giê-ru-sa-lem.
Bây giờ, trong sách Exơra, bạn
có ba chiếu chỉ cho việc tái thiết đền thờ, ba chiếu chỉ cả thảy. Một ở chương 1,
2 câu đầu tiên; một ở chương 6, 5 câu đầu tiên; một ở chương 7. Không một chiếu
chỉ nào trong số nầy là chiếu chỉ đúng vì đấy là các chiếu chỉ xây đền thờ chớ
không phải xây thành. Song nó nói ở đây: “từ khi ra lịnh tu bổ và xây lại Giê-ru-sa-lem”.
Giờ đây, cho phép tôi chỉ
cho bạn thấy chiếu chỉ đó. Nêhêmi chương 2, và hãy nghe đây, thậm chí ở đây nói
cho chúng ta biết ngày và tháng nữa kìa, câu 1: "Đang năm thứ hai mươi đời vua At-ta-xét-xe, tháng
Ni-san, rượu sẵn ở trước mặt người, tôi lấy rượu dâng cho vua”. Bạn nhớ ngay, quan tửu chánh cho nhà vua, là
Nêhêmi. "trước
tôi không hề có bộ buồn rầu tại trước mặt người”.
"Vua nói với tôi rằng: Nhân sao ngươi mặt mày
buồn, dầu mà ngươi không có bịnh? Điều đó chỉ là sự buồn rầu trong lòng mà
thôi. Bấy giờ tôi lấy làm sợ hãi lắm. bèn nói với vua rằng: Nguyện vua vạn tuế!
Lẽ nào mặt tôi không buồn, khi cái thành, là nơi có mồ mả của tổ phụ tôi, bị
phá hoang, và các cửa thành bị lửa thiêu đốt? Vua hỏi tôi rằng: Ngươi cầu xin cái gì? Tôi
bèn cầu nguyện cùng Đức Chúa của các từng trời, rồi tâu với vua rằng: Nếu vua
thấy điều đó là tốt lành, nếu kẻ tôi tớ vua được ơn trước mặt vua, xin vua hãy
sai tôi về Giu-đa, đến thành có mồ mả của tổ phụ tôi, để tôi xây cất thành ấy
lại”. Đang
khi ấy hoàng hậu cũng ngồi bên cạnh vua. Vua bèn hỏi tôi rằng: Ngươi đi đường
lâu chừng bao nhiêu, và khi nào ngươi trở về? Vậy, vua đẹp lòng sai tôi đi, và
tôi định nhựt kỳ cho người”.Tôi cũng thưa với vua rằng: Nếu điều này được đẹp lòng
vua, xin vua hãy trao cho tôi những bức thơ truyền các qua tổng trấn bên kia
sông cho phép tôi đi ngang qua cho đến khi tôi tới Giu-đa,
lại ban chiếu
chỉ cho A-sáp, kẻ giữ rừng vua, truyền người cho tôi gỗ làm khuôn cửa của thành
điện giáp với đền và làm vách thành, cùng nhà mà tôi phải vào ở. Vua bèn ban
cho tôi các điều đó, tùy theo tay nhân lành của Đức Chúa Trời tôi giúp đỡ tôi”.
Chính tại đó, Ạt-ta-xét-xe,
đã ban cho chiếu chỉ. Các học giả cho chúng ta biết tháng Nisan, là tháng Ba; ngày,
chắc chắn là ngày thứ 14; năm 445TC. Thời điểm ấy khởi sự 490 năm: 445TC, ngày
thứ 14 tháng Ba. Khi nào thì thời điểm ấy kết thúc? Khi nào thì 490 năm kết
thúc? Hãy nhìn vào câu 25 một lần nữa. “Từ khi ra lịnh tu bổ và xây lại Giê-ru-sa-lem”, có phần kết thúc: "Đấng chịu xức dầu, tức là vua, thì được bảy
tuần lễ và sáu mươi hai tuần lễ". Bây
giờ là tuần thứ 69; còn lại một tuần nữa. Tuần ấy không đến cho tới câu 27; chúng
ta xem ở đó trong một phút đi.
69 tuần đầu tiên được chỉ
ra ở đó. Và hãy chú ý ở chỗ đó được phân ra làm hai phần: bảy tuần lễ và rồi tuần
thứ 62. Tại sao chứ? Từ mạng lịnh phải phục hồi và tái thiết cho đến Đấng Mêsi,
Nhà Vua, là 7 tuần lễ. Và bạn nói: "Được,
điều gì đã xảy ra trong 7 tuần lễ đó?" Được thôi, việc ấy
đưa chúng ta đến năm 396TC và trong suốt khoảng thời gian 49 năm đầu tiên đó,
thành đã được tái thiết. Kinh Thánh nói ở đây, chỗ cuối câu: "thành đó sẽ được xây lại, có đường phố và hào,
trong kỳ khó khăn".
Hãy nhớ, truyện tích nói tới
Nêhêmi tìm cách xây dựng bức tường và mọi cuộc công kích cùng mọi kẻ thù? Nhưng
họ đã làm việc ấy và gần năm 396TC thì công việc xong. Và năm 396TC đánh dấu sự
cuối cùng chức vụ của Malachi và phần kết của Kinh Cựu Ước, như vậy 49 năm đầu
tiên, 7 lần 7, rất là quan trọng cho việc đặt các nền tảng về thuộc thể, cũng
như thuộc linh. Thành đã được xây dựng và Kinh Cựu Ước đã được thiết lập. Và rồi
đến tuần 62, tổng cộng 62 tuần lễ và 7 tuần lễ, 69 tuần lễ tạo thành 483 năm. Và
chúng ta vẫn còn sót 7 năm từ 490 năm đó.
Bây giờ cho phép tôi cung ứng
cho bạn một suy nghĩ khác. Đây là những năm có 360 ngày. Các trước giả Kinh
Thánh xưa đã tính lịch năm có 360 ngày thay vì 365 ngày, giống như những người
theo tà giáo vậy. Như vậy, chúng ta xem lại câu 25: "cho đến Đấng chịu xức dầu, tức là vua, thì được
bảy tuần lễ và sáu mươi hai tuần lễ". Không
phải trẻ sơ sinh Mê-si, không phải con trẻ Mê-si, không phải nhà truyền đạo
Mê-si, không phải Đấng chịu chết Mê-si, không phải Đấng sống lại Mê-si, mà Đấng
Mê-si Ngài là Vua, Đấng chịu xức dầu, Đấng Vương Giả, Đấng như Vua Chúa, Đấng
Oai Nghi, là Đấng kế tự ngai vàng, Masheac
Nagiv, Nhà Vua chịu xức dầu.
Như vậy, sẽ là 483 năm 360 ngày.
Bây giờ, cách duy nhứt chúng ta có thể hình dung ra, là chúng ta phải đổi loại
năm của chúng ta với loại ngày đó. Như vậy, chúng ta sẽ nhân số năm với số ngày
đó. Bạn nhân nó lên và đó là 173.880 ngày. Bạn nói: "Kinh Thánh không thể đặc biệt đến thế". Phải,
bạn sẽ tìm ra trong phút chốc, 173.880 ngày.
Chiếu chỉ đến nhằm ngày thứ
14 tháng Ba năm 445TC. Sir Robert Anderson, là nhân vật đặc biệt phát hiện ra lời
tiên tri nầy nói tới sự đắc thắng vào thành của Đức Chúa Jêsus Christ đã được
xác định, do việc nhìn vào lịch của người Do-thái nói tới các ngày Lễ Vượt Qua và
cứ thế, rằng thời điểm trong đó Lễ Vượt Qua được tuân giữ sẽ được xác định dễ
dàng, ít nhất là qua cách sử dụng phương pháp của ông. Và ông tìm ra, từ đó, sự
vào thành đắc thắng của Chúa Jêsus đã xảy ra vào ngày 6 tháng 4 năm 32SC; tháng
Nisan.
Và như vậy, mọi sự chúng ta
cần phải làm là tính toán nó một chút. Nếu Đaniên chính xác, vì ngày 14 tháng 3
năm 445TC đến ngày 6 tháng 4 năm 32SC sẽ là 173.880 ngày. Phải, chúng ta hãy
suy nghĩ về việc nầy. Từ ngày 14 tháng 3 năm 445TC đến ngày 6 tháng 4 năm 32SC
chỉ có 477 năm và 24 ngày. Vì vậy, chúng ta thiếu mất mấy năm. Chúng ta phải trừ
đi một năm vì năm 1BC và năm 1SC là cùng một năm. Vì vậy, chúng ta thực sự có
476 năm và 24 ngày. Bây giờ, chúng ta phải đổi lịch của chúng ta 365 ngày, như vậy
chúng ta nhân hết tất cả, cộng với 24 ngày, và chúng tôi nhận được 173.764 ngày;
Và chúng tôi vẫn còn thiếu. Nhưng chúng ta có Năm Nhuần cứ bốn năm một lần. Vì
vậy, 476 chia cho 4, cho chúng ta 119 Năm Nhuần, vì vậy chúng ta thêm 119 ngày
nữa vào 173.664, và chúng ta có 173.883 ngày, nhiều hơn 3 ngày.
Bạn nói: "Kết như thế là đủ rồi đấy". Kết
thúc là chưa tốt đủ đối với Chúa. Sir Robert Anderson đã tới Đài quan sát Hoàng
gia ở Anh quốc và ông phát hiện ra phép tính theo mặt trời của họ, một năm là
1/128 của một ngày dài hơn so với năm dương lịch, thêm 1/128 một ngày dài hơn.
Vì vậy, cứ mỗi 128 năm, chúng ta phải mất một ngày. Và nếu bạn đang tính với
483 năm, đấy sẽ là 3 ngày đó. Vì vậy, bạn ngã ngửa ra và bạn có 173.880 ngày. Chính
xác y như lời của Đức Chúa Trời đã phán.
Giờ đây, vấn đề thú vị là,
trong những năm gần đây, Tiến sĩ Harold Hoehner đã viết một cuốn sách mang tên The Chronological Aspect of the life
of Christ [Các phương diện về niên đại thuộc đời sống của Đấng Christ].
Và khi tôi nghe nói có người khác đã làm việc này, tôi hơi lo lắng khi biết được
người ấy sẽ có cùng câu trả lời hay không. Vì vậy, Hoehner đã lo liệu công việc
của mình, và tôi nói cho bạn biết điều này bởi vì đó là sự thật và bạn phải biết
nó để bạn có thể hiểu được vấn đề.
Ông đã định rằng năm thứ nhứt
của Ạt-ta-xét-xe phải là năm nhậm chức, vì vậy bạn không thể tính nó. Vậy, chiếu
chỉ phải phát ra vào ngày 5 tháng Ba năm 444TC, thế là ông dời lại một năm – thay
vì tới một năm, theo cách nầy. Ông cũng tính, từ các nghiên cứu trong Tân Ước, và
ông có mặt trong danh sách các học giả và trình tự niên đại khi nghiên cứu Tân
Ước rằng Chúa bị đóng đinh trên thập tự giá nhằm vào ngày 3 tháng 4 năm 33SC. Rồi
ông đi ngược lại từ đó đến sự đắc thắng vào thành, khởi sự tính từ ngày 5 tháng
3 năm 444TC, cho đến phần niên đại ông thiết lập vào năm 33SC, có được cùng con
số chính xác: 173.880 ngày. Dù là cách thức nào.
Bây giờ bạn nói: "Liệu Đức Chúa Trời có thể chấp
nhận hai công việc này hay không? Nếu cả hai đều đúng, thì mục đích sẽ mất
đi". Không, mục đích không bị mất. Một trong hai là đúng; mục
đích đã đạt được. Vấn đề đơn giản là chỗ nầy: khi Chúa Jêsus cỡi lừa vào thành
Giê-ru-sa-lem, đây không phải là một Đấng Mê-si tự phong, quảng bá cho lễ hội của
chính mình, kéo theo cả đám đông của chính mình. Đây là điều đã được nói ra hằng
mấy trăm năm trước bởi tiên tri Đaniên.
Chẳng phải là có bấy nhiêu
đâu. Đó chưa phải là tất cả đâu. hãy xem câu 26. Sau "bảy
tuần lễ và sáu mươi hai tuần lễ" tổng
cộng là 69 tuần,
"Đấng Chịu Xức Dầu" sao chứ? Bị trừ đi. Trong tiếng
Hy-bá-lai, nói như thế có nghĩa là bị giết đi hoặc bị diệt đi, chết hay bị tiêu
diệt. Khi nào thì việc ấy xảy ra? Trong suốt 69 tuần lễ ư? Không. Trong tuần lễ
thứ 70 chăng? Không.
Sáu mươi chín tuần lễ kết
thúc rồi sau đó, đây chẳng phải là một phần trong 69 tuần đâu, mà là sau đó kia.
Như vậy, giờ đây hãy cho tôi biết đi, ở giữa tuần 69 và 70 có việc gì chứ? Có một
lỗ hỗng về không gian, có phải không? Bởi vì vào cuối tuần thứ 69 nhưng trước tuần
thứ 70, bắt đầu ở câu 27, Đấng Mê-si bị trừ đi và không lâu sau khi kết thúc tuần
thứ 69, Ngài bị trừ đi. Ngài đã cỡi lừa vào trong thành, và tuần thứ 69 hay năm
cuối cùng của năm 483, đã lên đến đỉnh điểm đúng vào ngày mà Ngài cỡi lừa vào
thành. Rồi chỉ mấy ngày sau đó, Ngài bị trừ đi, Ngài đã chết.
Khó tưởng tượng lắm; Đấng
đã đến trong sự ứng nghiệm các lời tiên tri đã bị giết bởi những người mà Ngài đến
để cứu họ. Sau nhiều năm mong đợi, Ngài đã bị hành quyết như một tội phạm thông
thường. Nhưng thiên sứ đã ban sứ điệp của Đức Chúa Trời theo cách này: Người sẽ
bị trừ đi song chẳng phải tự Ngài đâu. Chẳng có gì trong đó cho Ngài, phân đoạn
Kinh Thánh nói. Có người xem ý nghĩa việc ấy là không có chút vinh dự nào hết,
không có sự tôn trọng, không có vinh hiển chi cả. Phần của ông là luống nhưng.
Có người cho rằng: "Nhưng trong sự chết Ngài, chẳng
có lý do gì cả. Chẳng có gì trong đời sống Ngài đến nỗi Ngài phải bị hành quyết". Cả
hai đều đúng. Không có chút vinh hiển nào ở đó, không có vinh dự gì ở đó, và
Ngài đã không chết vì Ngài cần phải chết. Ngài đã chịu chết ở đó, nhưng không
phải cho Ngài, để cho ai chứ? Cho chúng ta. Các bạn ơi, thiên sứ Gáp-ri-ên nhắm
đúng mục tiêu đấy. Ngài đã bị hành quyết chẳng phải vì Ngài đã làm gì, mà vì tội
lỗi của chúng ta. Ngài đã nhận lãnh trong vai trò một vị vua và chẳng có chút
vinh quang nào hết. Rồi sau đó, Ngài bị trừ đi.
Và khi ấy dân sự Nhà Vua hầu
đến, họ sẽ đến phá hủy thành phố và nơi thánh. Và phần kết của nó sẽ xảy ra với
trận lụt và cho đến khi kết thúc chiến tranh, những sự tàn phá đã được định.
Vào cuối thời kỳ 483 năm đó, khi Chúa Jêsus gục chết trên cây thập tự vào năm
32 hoặc 33, thời kỳ đã dứt rồi. Và sau đó, Kinh Thánh phán, thành phố, nơi
thánh sẽ bị phá diệt bởi trận lụt. Và nó không có nghĩa là nước lụt đâu, nó có
nghĩa là một trận lũ binh lính. Và một cuộc chiến sẽ mang lại sự tàn phá. Đấy
là một phần của những gì Đức Chúa Trời cũng đã quyết định rồi.
Ai sẽ lãnh đạo cuộc chiến nầy?
Chúng ta biết ai đã lãnh đạo nó; người La-mã: Titus, Vespasian, tướng lãnh người
La-mã. Và điều đó đã xảy ra vào năm 70SC; việc xảy ra không lâu, cũng không dài
lắm đâu. Chưa đầy 40 năm sau, cả thành phố đã bị tàn phá. Lịch sử cho chúng ta
biết Titus đã tấn công bằng pháo binh La-mã, ông phá vỡ các bức tường. Họ bắt mọi
người mà họ có thể bắt ở bên ngoài thành phố và những người lính đánh thuê đã đóng
đinh những 500 người mỗi ngày cho đến khi có một khu rừng người bị đóng đinh
trên khắp thành phố. Và các sử gia cho chúng ta biết rằng một mùi hôi thối không
thể chịu nổi treo trên ở ngoài ngoại ô. Một triệu người chết, 100.000 thi thể bị
ném ra ngoài bức tường.
Thành phố khi ấy bị niêm
phong lại và dân chúng rời đi bị đói khát đến mức mà họ thực sự đã ăn thịt
chính con cái của họ. Và bọn cướp chạy qua các đường phố, sử gia Josephus cho
biết, chúng lấy trộm quần áo từ các thi thể đã chết. Tôi muốn nói, họ chỉ bị
tàn phá và người La-mã đã làm việc đó. Người La-mã đã làm điều đó vào năm 70 y
như Đaniên đã nói.
Còn sót một tuần; chúng ta
phải lôi nó ra. Chúng ta hãy tìm xem trong câu 27. "Người", bây giờ, chờ một phút đi,
dừng ngay ở đó. Người? Người là ai chứ? Trở lại ở câu 26: "Vua hầu đến".
Kinh Thánh chép rằng những
người phá hủy thành phố là dân vua hầu đến. Họ là người La-mã, chúng ta biết điều
đó. Cho nên, sẽ có một vị vua đến từ người La-mã. Sẽ có một vị vua nổi lên từ Đế
quốc La-mã và chính vị vua ấy, nhân vật cầm quyền đó, ra từ Đế quốc La-mã, là người
sẽ khẳng định giao ước với nhiều dân trong một tuần. Có tuần lễ cuối cùng.
Sau khi bạn đã trải qua phần
còn lại của sách của Đaniên, bạn biết ai là vì vua đó; đó là ai chứ? Đó là Anti-
Christ. Đó là vị vua ngoan cố, đó là cái sừng nhỏ, đó là Đấng Mêsi giả. Và hắn nổi
lên từ Đế Quốc La-mã Phục Hưng. Chúng ta thấy rằng trong lời tiên tri của Đaniên
rằng vào kỳ tận thế, sẽ có sự phục hưng của Liên minh La-mã. Chúng ta hiện đang
chứng kiến nó trong các giai đoạn hình thành trên Khối thị trường chung châu
Âu. Nó sẽ có 10 nước. Khối thị trường chung hiện nay có 10 quốc gia thành viên
và họ đang hình thành trên khu vực trước kia là Đế Quốc La-mã.
Và từ đó, trong những ngày
cuối cùng, Anti-Christ, Nhà Vua sẽ dấy lên. Và hắn sẽ lập giao ước với người
Do-thái trong bảy năm. Hắn sẽ là người bảo vệ họ. Hắn sẽ đến, có lẽ để đóng ấn
cho họ với sự bảo hộ khỏi tất cả kẻ thù thường xuyên áp sát đường biên giới của
họ. Hắn sẽ cho phép họ xây dựng lại đền thờ của họ. Hắn sẽ cho phép họ có một sự
thờ phượng được phục hồi.
Tôi đã nhận được một lá thư
hôm qua từ Tổ chức Đền Thờ Giê-ru-sa-lem yêu cầu tôi, không biết tôi có viết một
lá thư cho lãnh đạo quốc gia Israel nài xin họ cho phép người Do-thái xây lại
ngôi đền thờ của họ trên Hòn Núi Thánh hay không!?! Họ mong muốn điều đó và họ mong
muốn nó một cách tồi tệ. Thậm chí tôi có nhận được một bản vẻ toàn bộ nơi này
và họ muốn xây dựng ở đó và họ muốn đặt đền thờ ở đó. Rồi mới đây, một số người
Do-thái đã lên đến đó xưng nhận vị trí ấy và tất cả họ đều bị bỏ tù. Có một ham
muốn rất lớn cho điều đó.
Và tôi tin rằng dưới quyền
vị vua nầy ra từ Đế Quốc La-mã Phục Hưng bảo vệ họ, họ sẽ có quyền xây dựng lại
đền thờ đó và họ sẽ bắt đầu các thứ của lễ của họ và họ sẽ bắt đầu sự thờ lạy của
họ trở lại. Và mọi thứ sẽ suông sẻ. Nhưng hãy chú ý câu 27, vào giữa tuần lễ,
ba năm rưỡi: "người
sẽ khiến của lễ và của lễ chay dứt đi”. Hắn đặt dấu chấm hết
cho tôn giáo của họ trong giai đoạn bảy năm sau cùng này. Và trong chỗ của nó, hắn
mang đến những thứ mà Đaniên gọi là sự gớm ghiếc tràn lan. Hắn tạo ra sự hoang
vu.
Và sự gớm ghiếc nầy tràn
vào nơi thánh, nơi chí thánh, nơi những người Do-thái đang thờ lạy và đồi bại.
Và chúng ta biết những điều hắn làm. Mọi sự chúng ta phải làm là đọc sách Khải
Huyền để tìm hiểu. Khải huyền 11 và Khải Huyền 13 cho chúng ta biết rằng hắn đã
đặt một hình tượng kêu gọi thế giới phải thờ lạy hắn. Và, tất nhiên, đây là một
sự gớm ghiếc. Đây là sự hoang vu gớm ghiếc. Ma-thi-ơ 24 đề cập đến sự hoang vu ấy.
Và nó mở ra những gì ai cũng biết là Kỳ Đại Nạn. Và nửa sau của thời kỳ bảy năm
đó là một cuộc tàn sát mà thế giới chưa hề biết đến.
Mọi sự đi vào chuyển động đều
do Anti-Christ thực hiện khi hắn đá ngược với sự vi phạm việc thờ lạy của người
Do-thái trong đền thờ. Vì vậy đây là một lời tiên tri đáng kinh ngạc. Nó đưa
chúng ta đến phần cuối của Kinh Cựu Ước "cho đến khi các nền của thành phố được khôi phục và
bức tường thành được xây dựng và đền thờ hoạt động lại”.
Và rồi nó đưa chúng ta đến phần cuối của những năm 483 khi Đấng Mê-si ngự đến như
nhà vua. Và rồi nó đưa chúng ta vượt hơn điều đó đến việc trừ đi Đấng Mê-si, và
hơn thế nữa, đến sự phá hủy thành phố. Và hơn thế nữa đến bảy năm được gọi là kỳ
đại nạn, rồi đến một nửa cuối, được gọi là Kỳ Đại Nạn đến sự gớm ghiếc hoang vu,
là các chìa khóa cho sự tàn sát sau cùng của thế giới.
Và đấy là lý do tại sao ở
phần cuối của câu 27, ở đây chép: "đưa
chúng ta đến sự hoàn thiện". Cho tới chừng mọi sự Đức
Chúa Trời đã hoạch định được bày ra ở chỗ hoang vu. Điều này bắt đầu với một chiếu
chỉ của Ạt-ta-xét-xe và kết thúc trong sự hoàn thiện sau cùng.
Bạn nói: "Điều gì xảy ra ở chỗ hoàn
thành?" Hãy nhìn vào động từ ở cuối câu 27: "Điều đã định sẽ được đổ ra trên
chỗ hoang vu". Và đó cũng là thuật ngữ được sử dụng ở câu
24 trong dạng động từ "được
quyết định". Và chúng ta đã hoàn tất đủ chu kỳ. Những gì
đã được định sẽ được ứng nghiệm. Điều gì đã được ứng nghiệm, trong câu 27, là
điều đã được định trong câu 24. Điều đó là gì vậy? Xong việc với sự quá phạm. Đặt
dấu chấm hết cho tội lỗi. Tạo ra sự phục hoà. Mang đến sự công bình đời đời. Đóng
ấn sự hiện thấy trong lời tiên tri và xức dầu cho nơi chí thánh. Nói cách khác,
chúng ta đã đi suốt con đường đến đỉnh cao của lịch sử, sự tái lâm của Đức Chúa
Jêsus Christ, sự thiết lập vương quốc của Ngài và bước vào các tầng trời và đất
đời đời.
Và Đa-ni-ên đã cầu xin: "Lạy Chúa, xin tỏ cho con thấy
khi nào Israel sẽ được cứu và bằng cách nào?" Và
Đức Chúa Trời đưa ông đi xa hơn mọi điều ông từng mơ ước và cho ông thấy mọi dòng
chảy của lịch sử cho đến sự tái lâm của Đức Chúa Jêsus Christ. Hãy nghe đi, lời
tiên tri nói rằng Chúa sẽ đến như một vì vua. Ngài đã thực thi đúng kế hoạch
cho đến đó. Ngài sẽ bị giết, Ngài đã bị giết. Không phải vì chính mình Ngài, đó
là sự thật. Thành phố Giê-ru-sa-lem sẽ bị phá hủy? Họ đã phá huỷ. Hết thảy mọi
sự ấy đã ứng nghiệm với sự chính xác.
Rồi việc kế tiếp là giao ước
cho tuần lễ cuối cùng. Chúng ta không biết khi nào tuần lễ đó nó sẽ khởi sự. Và
đấy là lẽ mầu nhiệm trong mặc khải của vị tiên tri. Chúng ta đang ở trong lỗ hỗng
giữa tuần thứ 69 và tuần thứ 70. Chúng ta không biết khi nào tuần ấy sẽ khởi sự.
Chẳng ai biết ngày hoặc giờ. Nhưng hãy nghe đi, nếu phần còn lại của những việc
đã xảy ra rồi và chúng ta có thể xác minh chúng, chúng ta không cần phải nghi
ngờ việc còn lại có xảy ra hay không!?! Và khi bạn nhìn vào thế giới ở xung
quanh bạn, đôi khi có vẻ như bạn có thể nghe thấy tiếng bước chân của chính mình
Đấng Christ.
Và khi chúng ta suy nghĩ về
Chúa Nhật Lễ Lá, chúng ta nhìn lại không những vào thời điểm khi Chúa Jêsus đến
trong thành như nhà vua, và chúng ta khẳng định Ngài là vua. Nhưng chúng ta hãy
vượt qua điều đó và chúng ta quay trở lại với Đaniên vào thế kỷ thứ sáu. Và
chúng ta tìm thấy khi ngược về với sách ấy, Đaniên đã nói việc sẽ ra như thế.
Và Đaniên cũng giúp chúng ta vượt xa khỏi sự đắc thắng vào thành, đến mục đích
chiến thắng thực sự, sự vào thành đó chỉ là một tiên vị mà thôi.
Khi Ngài đến như Vua các
vua và Chúa các Chúa và đặt dấu chấm hết cho tội lỗi rồi thiết lập sự công bình
đời đời, đóng ấn mọi sự khải thị và xức dầu nơi chí thánh, chúng ta sẽ bước vào
vương quốc vinh hiển đời đời cho đến đời đời. Những gì đã xảy ra mà chúng ta tưởng
niệm vào ngày nầy là một tiên vị của những gì sẽ xảy ra khi Ngài trở lại một lần
nữa. Chỉ khi ấy sẽ chẳng có gì khác nữa trừ ra sự phán xét giáng trên những kẻ
nào chối bỏ; không chút thương xót. Nhưng cho tới thời điểm ấy giống như chúng
ta sống ở giữa năm thứ 69 và năn thứ 70, chúng ta cần phải xem xét thận trọng
điều chi đã được định trên lịch sử nhân loại và chúng ta thích ứng ở chỗ nào.
Phi-e-rơ đã nói theo cách nầy:
"Khi nhìn xem mọi sự
nầy, anh em phải sống tin kính và thánh khiết là dường nào".
Có một hình ảnh về lịch sử nhân loại. Lịch sử ấy trải đi theo cách không thể
tránh khỏi. Liệu bạn sẽ có mặt ở đó để nghinh đón nhà vua khi Ngài đến không? Liệu
bạn sẽ ở đó để được tiếp nhận vào vương quốc của Ngài không? Hay bạn sẽ bị đuổi
ra? Đó là câu hỏi. Và đức tin của bạn nơi Đức Chúa Jêsus Christ, giờ đây, sẽ quyết
định số phận đời đời của bạn khi ấy.
Chúng ta hãy cúi đầu xuống trong sự cầu nguyện. Với sứ đồ
Giăng, thậm chí chúng ta nói lạy Chúa Jêsus xin hãy đến. Có một tiên vị về sự
cay đắng trong lòng khi chúng ta nghĩ đến sự thực, lúc bạn đến quá trễ vì hết
thảy những kẻ đã chối bỏ bạn. Chúng ta cầu xin, lạy Chúa, nguyện Ngài hành động
trong tấm lòng của những người có mặt tại đây. Đối với những ai chưa nhận biết
Ngài, nguyện họ nhìn thấy tính chính xác, không sai dời của Kinh Thánh, nguyện
họ nhìn thấy Ngài đang tễ trị lịch sử.
Và nguyện họ nghe theo lời của tác giả Thi thiên như sau:
"Hãy hôn con ta, e người nổi giận chăng". Lạy Cha, chúng con cầu xin
rằng không một tấm lòng nào chối bỏ Đức Chúa Jêsus Christ, Ngài là vua. Ồ, đám
dân đông hay thay đổi là dường nào. Nhà Vua, một vài ngày sau đó, là tội phạm.
Hô-sa-na, vài ngày sau, hãy đóng đinh nó lên cây thập tự. Lạy Cha, chúng con cầu
xin cho mọi người ở đây đáp ứng đúng đắn với Nhà Vua, là Đức Chúa Jêsus Christ.
Đối với chúng con là Cơ đốc nhân, nguyện chúng con ý thức được quyền phép của
Kinh thánh, một sự khẳng định tuyệt vời về tính trung thực của nó. Và nguyện
chúng con cũng muốn, như Phierơ đã nói, sống thánh khiết và tin kính. Và chứng
tỏ rằng chúng con yêu mến sự hiện đến của Ngài và ao ước ngày ấy khi chúng con
sẽ được nghe: "Được lắm, hỡi đầy tớ trung tín kia".
Nguyện chúng con sống trong ánh sáng sự tái lâm của Đấng
Christ, và nguyện chúng con cũng giống như Giăng, rằng sự trông cậy nầy là sự
trông cậy thánh sạch.
Nhận xét
Đăng nhận xét