Đa-ni-ên Trong Hang Sư Tử
Đa-ni-ên Trong Hang Sư Tử
Tối
nay chúng ta xem ở chương 6 sách Đa-ni-ên. Đúng là một cuộc phiêu lưu kỳ thú và
đầy phấn khích khi phải trải qua chương này. Tôi thường bị áy náy khi tôi tiếp
cận các chương truyện tích như thế nầy về khả năng phân chia và bao phủ chúng
trong một khoảng thời gian, và tuy nhiên câu chuyện vẫn kỳ thú như một tổng thể,
tôi thấy mình bị ép phải xử lý hết mọi chuyện trong đó và vì vậy chúng ta sắp xếp
theo cách của chúng tôi thông qua các phần tường thuật tuyệt vời của sách
Đa-ni-ên. Đây là phần cuối trong số đó. Chương sáu này kết thúc phân đoạn kể
chuyện về mặt lịch sử, và từ chương 7 trở đi, chúng ta gặp phải một số lẽ thật rất
sâu sắc và kỳ thú về mặt tiên tri. Chúng ta sẽ đụng đến ở phần khởi sự ngày của
Chúa tới đây.
Chúng
ta ở Đa-ni-ên chương 6, chương nổi tiếng trong đó chúng ta thấy Đa-ni-ên đang tới
lui trong hang sư tử. Giống như phần giới thiệu, cho phép tôi đưa ra một vài nhận
xét liên quan đến những gì chúng ta sẽ tiếp thu tới đây. Các quốc gia được sinh
ra, họ sống, rồi họ chết. Họ dấy lên rồi họ đều đặn suy sụp. Thực vậy, khi bạn
nghiên cứu lịch sử, bạn càng có ấn tượng với sự thực: các quốc gia nhanh chóng đến
rồi đi khỏi bối cảnh. Chúng ta nhìn lại các đế quốc của người Hê-tít, người
Ai-cập, người A-si-ri, và cuối cùng là người Ba-by-lôn, ở đó chúng ta thấy Đa-ni-ên
trước tiên đảm nhận vai trò Thủ tướng. Tiếp theo là người Ba-tư, người Mê-đi,
người Hy-lạp và người La-mã. Hết thảy họ đều đã đến và rồi tất cả họ đều biến
đi.
Trên
lục địa của chúng ta, ở Tây bán cầu, chúng ta tìm thấy những câu chuyện kể về
người Maya vĩ đại, người Inca vĩ đại, những nền văn minh Aztec vĩ đại, nhưng ít
ỏi hoặc không có dấu vết nào ngoại trừ một số hiện vật khảo cổ. Họ đã đến rồi họ
đã biến đi.
Trong
các thời kỳ hiện đại, một số người trong các bạn đã sống qua sự vĩ đại của thời
kỳ Anh quốc. Bạn nhớ tới sự vĩ đại của nước Pháp. Bạn nhớ khi nước Ý là một cường
quốc lớn trên thế giới và thậm chí đã đe dọa thống trị châu Âu dưới quyền lãnh
đạo của Mussolini. Chúng ta nhớ nước Đức. Hitler, là nhân vật với triết lý
Aryan, ông nghĩ có thể chinh phục cả thế giới. Chúng ta đã chứng kiến sự dấy
lên của Nhật Bản như một quyền lực quân sự. Trung Quốc dường như đã có thời của
nó. Nước Nga dường như đang có thời của nó hôm nay. Và nước Mỹ có thể bị suy yếu
đi.
Nhiều nước dấy lên, nhiều
nước sụp đổ. Họ đã đến rồi đi mất. Nhưng Kinh thánh cho chúng ta biết trong Công
Vụ các Sứ Đồ 17 rằng thời kỳ của các nước bị ràng buộc bởi sự tễ trị của Đức
Chúa Trời. Và những gì xảy ra cho các nước đều nằm trong kế hoạch định sẵn của Đức
Chúa Trời cho lịch sử. Giờ đây cái điều đặc biệt đáng kinh ngạc là sự đến rồi
đi của các nước có ít việc phải làm với diễn tiến của dân sự Đức Chúa Trời.
Không
thể tưởng tượng được một sự kiện biến động lớn như đã xảy ra ở chương 5 sách Đa-ni-ên.
Ba-by-lôn đã sụp đổ. Ở đỉnh cao được cho là vinh quang của nó, cái đầu bằng vàng,
đế quốc vĩ đại nhất mà nhân loại từng biết đến, người Mê-đi và người Ba-tư đã
tràn vào thành phố mà không bắn một mũi tên nào, toàn bộ Đế quốc đã sụp đổ.
Nhưng điều đáng ngạc nhiên về sự suy sụp đó là nó có ít hoặc không có động chạm
gì đến những gì Đức Chúa Trời đã làm với dân sự của Ngài, vì Đa-ni-ên bước đi
qua thời kỳ suy sụp và dòng chảy của các nước.
Và
khi chúng ta đến với chương 6, chúng ta bước vào phần thứ hai trong bối cảnh đế
quốc lớn thứ 4 theo hình tượng của Đa-ni-ên 2, đế quốc Mê-đi-Ba-tư, ngực và hai
cánh tay bằng bạc. Và khi chúng ta nhìn vào đế quốc đó, chúng ta không thấy vắng
Đa-ni-ên, mà chúng ta thấy Đa-ni-ên ngay tại trung tâm của vấn đề. Ông là Thủ
tướng của Ba-by-lôn, và tương đương thế, ông cũng là Thủ tướng của Mê-đi-Ba-tư.
Và
sự việc nầy kích thích tôi phải suy nghĩ tới đó. Vì tôi thấy ngày hôm nay,
trên khắp nước Mỹ và thậm chí cả trên thế giới, một sự bận bịu giữa vòng nhiều
Cơ đốc nhân với việc bảo vệ một số quốc gia, thậm chí là quốc gia của chúng ta
nữa. Và theo một phương thức kỳ lạ, họ đang nỗ lực sánh nước Mỹ với Hội thánh,
hoặc nước Mỹ với chương trình của Đức Chúa Trời, và cách ví sánh đó chẳng ăn nhập
gì cả. Các nước đến rồi đi và công việc của Đức Chúa Trời thì đang tiếp diễn.
Và không một nước nào thực sự là quan trọng khi được gài vào khung đời đời và chương
trình của Đức Chúa Trời.
Thí
dụ, trong Êsai 40:15, ở đây chép: "Kìa, các dân tộc khác nào một giọt nước nhỏ
trong thùng, và kể như là một mảy bụi rơi trên cân". Một
câu nói rất thú vị. Các nước giống như một giọt nước đổ ra từ cái xô. Từ ngữ duy
nhất tôi có thể nghĩ đến là "không
quan trọng". Chúng giống như mảy bụi ở trên cân, không phải
là thứ để đem cân. Khi Đức Chúa Trời muốn cân phần lịch sử của nhân loại, các nước
không phải là vấn đề. Và khi Đức Chúa Trời đổ ra cơn lũ dòng chảy của chương
trình cứu chuộc của Ngài, thì một giọt nước là không quan trọng. Các nước là những
giọt nước. Họ là mảy bụi.
Trở
lại ở Êsai 40:7-8, ông so sánh các nước với cỏ khô héo đi, chết chóc rồi biến mất.
Chúng ta nghĩ lại về Nim-rốt, San-chê-ríp, Nê-bu-cát-nết-sa, Si-ru, Ạt-ta-xét-xe,
A-léc-xan-đơ, Xê-sa, Pha-ra-ôn, Na-bô-lê-ông, Churchill, Mussolini, Hitler, Mao
trạch Đông, Khrushchev, và trong thời hiện đại của chúng ta, và các cấp lãnh đạo
và các nước đến rồi đi và công việc của Đức Chúa Trời vẫn tiếp tục.
Trong
Đa-ni-ên 4:17, bạn sẽ nhớ lời nói tuyệt vời đó: "Án đó là bởi các đấng canh giữ đã định, và lời
các thánh đã truyền, hầu cho những kẻ sống biết rằng Đấng Rất Cao cai trị trong
nước của loài người; Ngài muốn ban cho ai tùy ý, và lập kẻ rất hèn hạ trong
loài người lên đó”.
Đức
Chúa Trời đang tễ trị trong lịch sử. Và các nước có thể đến rồi các nước có thể
đi, ngay cả nước của chúng ta nữa. Nhưng chương trình cứu chuộc của Đức Chúa Trời
được mở ra qua dân sự Ngài sẽ được tiến hành theo đúng kế hoạch. Dân sự của Đức
Chúa Trời nếm trải sự dấy lên và sụp đổ của các nước. Họ vượt qua. Đó là một niềm
hy vọng lớn lao đối với chúng ta. Và chúng ta thấy rằng trong sách Đa-ni-ên.
Ba-by-lôn bị sụp đổ. Cái đầu bằng vàng bị nghiền nát. Thời kỳ của các Dân Ngoại
được chuyển vào giai đoạn hai, nhưng Đa-ni-ên đang ở đúng vị trí mà Đức Chúa Trời
mong muốn, và Đức Chúa Trời không bị cản trở bởi những quyết định của con người.
Khi
bạn suy nghĩ về thực tế Ba-by-lôn đã sụp đổ, điều đó thật đáng kinh ngạc. Tất
nhiên, Nê-bu-cát-nết-sa có một thói quen gắn tên mình trên từng viên gạch mà ông
đặt vào các tòa nhà của Ba-by-lôn. Kỳ thực, một tác giả viết rằng chúng ta đã
tìm thấy hàng ngàn viên gạch chưa được gắn tên của Nê-bu-cát-nết-sa lên đó – nỗ
lực xây dựng một đế chế lâu dài. Một viên gạch, hiện đang ở trong viện Bảo tàng
Anh quốc, có hình ảnh và tên của Nê-bu-cát-nết-sa và một dấu chân chó của cả
hai.
Vì
vậy, chính với thế giới, nhưng dân sự của Đức Chúa Trời và chương trình của Đức
Chúa Trời vượt lên trên mọi sự ấy. Vì vậy, chúng ta thấy Đa-ni-ên còn sống sót,
và trong chương 6, chúng ta tìm gặp ông ở giữa đế quốc Mê-đi-Ba-tư.
Bây
giờ, tôi muốn một số từ ngữ chính đưa chúng ta qua đoạn văn này. Chúng ta sẽ khởi
sự từ phần đầu của chương 6. Đây là một bài tường thuật. Chúng ta không cần phải
dành nhiều thời gian cho từng tiểu đoạn. Chúng ta muốn đạt đến đỉnh điểm rồi sau
đó rút ra một số ý nghĩa thực tiễn. Nhưng chúng ta sẽ sử dụng một số từ ngữ
chính để giúp chúng ta nắm chắc vị trí của mình khi chúng ta đi tới.
Ý đầu
tiên thăng cấp, sự thăng cấp. Và việc ấy liên
quan đến các câu 1-3: "Vua Đa-ri-út ưng đặt trong nước” – đây là Vương quốc Mê-đi Ba-tư – “một
trăm hai mươi quan trấn thủ, để chia nhau trị cả nước, và trên họ có ba quan
thượng thơ” – và đồng thời, đây là chỗ duy nhứt trong Kinh Thánh
cụm từ “thượng thơ” từng được sử
dụng trong tiếng Hy-bá-lai, – hay thay vì là tiếng A-ram – và cho thấy đây là
cụm từ có nghĩa là “sếp”.
Ông
ta đặt trên một trăm hai mươi quan trấn thủ, hay sứ quân, họ phải báo cáo với
ba vị thượng thơ nầy: "mà một là Đa-ni-ên. Các quan trấn thủ phải
khai trình với ba quan đó, hầu cho vua khỏi chịu một sự tổn hại nào. Vả,
Đa-ni-ên lại trổi hơn hai quan thượng thơ kia và các quan trấn thủ, vì người có
linh tánh tốt lành; thì vua định lập người trên cả nước”.
Bây
giờ, ở đó chúng ta tìm thấy sự thăng chức. Hãy để ý, trước tiên, chúng ta gặp
Đa-ri-út. Bấy giờ, Đa-ri-út là một nhân vật rất khó nắm bắt bởi vì chúng ta
không có dữ liệu nào ngoài Kinh Thánh để nói với chúng ta biết chút gì về
Đa-ri-út. Chúng ta thực sự không biết ông ta là ai cả. Chúng ta không thấy ai ở
điểm đặc biệt nào đó trong lịch sử được có tên là Đa-ri-út. Dường như không có một
chỗ nào trong bản phỗ hệ của các vị vua thời đó về một người tên là Đa-ri-út.
Giờ
đây, một số học giả cảm thấy rằng Đa-ri-út là một cái tên khác nói tới một vị
vua với cái tên là Gubaru. Gubaru, thực sự ông ta không phải là một vị vua, mà là
người được bổ nhiệm dưới quyền của Si-ru là một nhân vật cai trị lãnh thổ Ba-
By-lôn. Si-ru, là hoàng đế vĩ đại của cả Đế quốc Mê-đi-Ba-tư, đã chỉ định
Gubaru này là người cai trị ở Ba-by-lôn. Và có người cho rằng từ ngữ “Đa-ri-út”
này đúng là cái tên khác nói tới Gubaru.
Nhưng
có một cách giải thích mà tôi thích nhất, ấy là Đa-ri-út đúng là tên khác nói tới
Si-ru. Tôi cảm thấy rằng đó có lẽ đấy là cách giải thích hay nhất trong mọi lời
giải thích. Tại sao chứ? Bởi vì từ ngữ “Đa-ri-út” là một tước hiệu. Nó là một
tước hiệu. Nó là một loại tước hiệu giống như Pha-ra-ôn, hoặc vua, hoặc Sê-sa.
Đó là một tước hiệu.
Thí
dụ, chúng ta tìm gặp từ “Đa-ri-út”, được
sử dụng trên các tấm bia trong khảo cổ học ít nhất cho năm nhà cai trị Ba-tư
khác nhau. Hết thảy họ đều được gọi là "Đa-ri-út". Vì vậy, tốt nhất thì
bạn nên xem đây là tước hiệu, là một tước hiệu danh dự, một tước hiệu quan trọng.
Và vì vậy, chúng ta có thể giả định rằng đó chỉ là một tước hiệu được gán cho
Si-ru. Và nếu bạn xem ở 6:28, bạn có thể nhận được một số trợ giúp về điều đó.
Câu
ấy chép: “Đa-ni-ên
cứ được thạnh vượng như vậy trong đời vua Đa-ri-út” – và tất nhiên, theo tiếng A-ram có thể đọc câu nầy là: “ngay trong triều đại vua Si-ru là người Phe-rơ-sơ”. Và
có một số nhà giải kinh nghiêng về cách đọc đó, thay vì là “trong đời vua Si-ru” khiến
chúng ra tương đương, ở cách dùng “ – ngay trong sự trị vì của Si-ru”.
Bây
giờ, nếu bạn trở lại trong chương 6, bạn thấy rằng Đa-ri-út đề ra trên vương quốc
120 quan trấn thủ, và đối với tôi dường như là nếu ông ta làm như thế, ông ta sẽ
là nhân vật cao cấp hơn số người cai trị ở địa phương ở Ba-by-lôn. Và nếu
ông lập lên ba vị thượng thơ trên cả vương quốc, ông phải là nhân vật rất quan
trọng. Khi ấy, tôi tin ông là Hoàng đế Si-ru của Mê-đi, đúng là một tước vị
khác đấy thôi. Chính sự thực ông đã dựng lên 120 quan trấn thủ sẽ cho thấy
rằng ông đã có một chiều kích cai trị rộng lớn hơn là chỉ có Ba-by-lôn, chỉ là
một bang thành phố của Ba-by-lôn.
Thế
là chúng ta gặp gỡ nhân vật Si-ru nầy, có lẽ được nhìn thấy rõ nhất ở đàng sau
danh xưng Đa-ri-út. Ông ta là một người có tài. Ông ta là một người thông minh.
Ông ta là một người rất hiệu quả về mặt tổ chức và cơ cấu. Ông ta là một nhân vật
có quyền lực. Ông ta là người không có sự đầu phục với Đức Chúa Trời, tức là Đức
Chúa Trời của Israel, tuy nhiên đối với các thần linh của chính mình, ông ta là
một người có sự quan tâm rất lớn đến Đức Chúa Trời của Đa-ni-ên, và điều đó
tăng lên khi chúng ta nếm trải chương thứ 6 nầy.
Bây
giờ, hãy chú ý Kinh Thánh chép rằng lúc ông bổ nhiệm 120 quan trưởng và ba vị thượng
thơ, câu 2 chép: "mà một là Đa-ni-ên". Trước
tiên là hãy nhìn xem chữ "một" đó,
Đa-ni-ên là một. Hoặc, chúng ta có thể xem chữ thứ nhứt đó, và ý nói rằng ông là
người thứ nhứt được chọn, hoặc ông là người thứ nhứt trong đẳng cấp ấy. Việc ấy
không thực sự là vấn đề đâu. Vấn đề thực sự nằm trong câu 3: "Đa-ni-ên lại trổi hơn hai quan thượng thơ kia”.
Và
cụm từ "trổi hơn"
trong tiếng A-ram là một phân từ ý nói: "ông thường tự phân biệt mình đối với mấy người
kia". Không có thắc mắc chi hết, ông là một chính trị gia giỏi
nhất trong cả Đế quốc Mê-đi Ba-tư, giống như ông là một chính khách tài ba nhất
trong Đế quốc Ba-by-lôn, có lẽ ông là chính khách xuất sắc nhất từng bước đi
trên bề mặt địa cầu vậy.
Bạn
nên chú ý trong câu 3 chép rằng: "vì người có linh tánh tốt lành". Cụm
từ đó thực sự nói về thái độ của ông. Và tất nhiên, thái độ bao trùm hết mọi việc
chúng ta làm. Đây là một điều rất đáng khen, một thái độ đúng đắn. Nhưng
Đa-ni-ên đã có nhiều hơn thế. Ông đã có kinh nghiệm. Tôi muốn nói, ông đã sống
qua chế độ vừa qua trong vai trò Thủ tướng. Ông có sự khôn ngoan, sự khôn ngoan
không như người khác đã có.
Ông
có một ý thức về lịch sử. Ông có khả năng lãnh đạo rất rõ ràng, nếu những gì
ông có thể làm trong đời sống của ba thanh niên trước đó trong sách là bất cứ hàm
ý nào cho thấy khuôn mẫu mà ông đề ra. Ông có khả năng quản trị và được giao
trách nhiệm trên cơ sở thật là sâu rộng. Còn hơn thế nữa, ông có khả năng giải
thích những điềm chiêm bao và những khải thị, và cung ứng cho mọi người một ý
tưởng về những gì sẽ xảy đến trong tương lai, và điều đó là vô giá đối với một vì
vua. Đúng là một nhân vật quan trọng.
Đức
Chúa Trời đã đặt ông ngay chỗ mà Ngài muốn ông phải ở đó. Đức Chúa Trời
cho phép Đa-ri-út phải công nhận tài năng của Đa-ni-ên, và đặt ông vào một vị
trí rất chiến lược, một địa vị có ảnh hưởng.
Bạn
biết đấy, trong năm đầu của Si-ru là năm rất kỳ thú, hoặc năm đầu tiên của
Đa-ri-út, ông ta đã ra một chiếu chỉ rằng người Do-thái có thể quay về lại xứ Giu-đa.
Chiếu chỉ của Si-ru, 70 năm tù làm phu tù cho người Ba-by-lôn đã đủ rồi, và
Si-ru ban ra chiếu chỉ ấy để ông quay trở lại – chứ không phải người Do-thái quay
trở lại. Và tôi thực sự tin rằng Đa-ni-ên là người có ảnh hưởng lớn lao trên
ông ta đến mức độ đó.
Tôi
nghĩ sở dĩ như thế vì cớ quyền phép của đời sống Đa-ni-ên, vì cớ sự khôn ngoan
của con người, vì cớ ảnh hưởng của con người, ngay cả vào năm đầu sự trị vì của
Si-ru, khoảng năm 538 hay năm 537TC, ông đã lập một chiếu chỉ buông tha cho dân
sự. Và điều đó đã xảy ra trước sự kiện hang sư tử, trong chính năm đầu của
Si-ru.
Vậy,
một lần nữa chúng ta gặp gỡ Đa-ni-ên. Song lần nầy, thay vì nhìn xem ông
là một thanh niên, như chúng ta đã gặp trong quá khứ, chúng ta đang nhìn thấy
ông là một cụ già. Thực vậy, hãy đánh dấu điều nầy, ở chương 6, Đa-ni-ên đang
ở độ tuổi 90 – 90 tuổi – và ông vẫn là người của Đức Chúa Trời. Ông vẫn là
sự lựa chọn của Đức Chúa Trời. Và ông vẫn là sự lựa chọn của nhà vua ở chức
vụ Thủ tướng. Bạn biết đấy, quyền phép của một đời sống nhân đức kéo dài
vào lúc tuổi đã cao.
Mục
sư Criswell ở Hội thánh Báp-tít Đầu Tiên ở Dallas thuật lại về Mục sư Robert G.
Lee, ông là một nhà truyền đạo rất giỏi ở miền Nam. Và Mục sư Robert G.
Lee, vào ngày sinh nhật thứ 84 của ông, vào năm 1970, tháng 11, có người hỏi
ông câu nầy:
“Thưa Mục sư Lee, ông sẽ cứ giảng đạo mãi ư?” Đây là lời đáp
của ông: “Khi có rất nhiều
người chưa được cứu ở quanh đây, khi có nhiều tấm lòng sầu não cần được yên ủi,
khi có nhiều thanh niên đang ném sự sống của họ vào chỗ điên dại và khu chợ
khoái lạc xác thịt; khi có nhiều điều tà ác bội nghịch cần phải đề kháng; khi
có nhiều người cao tuổi cô độc cứ lê bước lúc mặt trời lặn; khi vào năm 1910, lúc
tôi được tấn phong, tôi đã kết hôn với việc giảng đạo cho tới khi cái chết nắm
lấy chúng ta; tại sao tôi không ở vào năm thứ 85 của đời mình cứ tiếp tục giảng
đạo chứ?”
Mục
sư Lee đã thêm một số số liệu thống kê bổ sung, theo cách đó, cần phải chúc phước
và khuyến khích bất kỳ ai trong số các bạn đang đi tới chỗ 90 hoặc 80 tuổi. Đây
là những gì ông nói: “Newman
Darlan, một học giả kỳ cựu, đã thực hiện phần phân tích các đời sống và thành tựu
của 400 nhân vật quan trọng nhất của lịch sử. Phần phân tích cho thấy gần 80% các
nhân vật quan trọng nhất trên thế giới khép kín cuộc sống năng động giữa 58 và
80 tuổi. Hai mươi lăm phần trăm tiếp tục vượt quá 70, 22,5% vượt quá 80, và 6%
vượt quá 90. Hãy xem xét những gì đã được thực hiện bởi những người trên 80 tuổi.
"Khi 83 tuổi, Gladstone, lần thứ
tư, đã trở thành Thủ tướng của Anh Quốc. Michelangelo, ở tuổi 89, đã vẽ xong bức
Sự Phán Xét Sau Cùng, có lẽ là bức tranh duy nhất nổi tiếng nhất trên thế giới.
John Wesley đã giảng đạo với vẻ hùng biện gần như không bị suy giảm ở tuổi 88,
kết thúc ở độ tuổi đáng nhớ đó, sự nghiệp quan trọng nhất trong thời của ông,
đã đi ¼ một triệu dặm đường trong một kỷ nguyên không có điện, không có hơi nước,
và ông đã phát ra chừng 4.000 bài giảng, và đã viết ra vô số sách vỡ.
"Edison đã phát minh lúc 90 tuổi.
Wright, ở tuổi 90, được coi là một kiến trúc sư rất sáng tạo. Shaw đã viết kịch
ở tuổi 90. Bà Moses vẽ tranh ở tuổi 80. J.C. Penny, Cơ đốc nhân lỗi lạc, tất tả
lao động tại bàn làm việc của mình lúc 95 tuổi".
Và
chúng ta nói: “Ồ,
tôi đã 55 tuổi rồi. Tôi phải lui đi thôi”. Và
chúng ta mất đi sự phong phú của tuổi tác, sự giàu có của tuổi tác. Đa-ni-ên
sắp sửa 90 tuổi và ông là người của Đức Chúa Trời. Và Đức Chúa Trời đã đặt
ông đúng vào chỗ mà Ngài muốn ông phải ở đó và nền chính trị của Mê-đi Ba-tư có
ít việc phải làm để đứng vững được.
Cụm
từ thứ hai – cụm từ thứ nhất là thăng
cấp; cụm từ thứ hai là âm mưu, các câu 4-9. Bất cứ khi nào một người Chúa
nhấc lên một vị trí nổi bật, người ấy liền rơi vào chỗ khó khăn nhất định. Luôn
luôn có giá phải trả. Không có một sự tôn cao nào, và chẳng có một sự thành
công nào, và không có một sự nổi bật nào mà không trả giá bởi một lượng nhất định
của tình trạng nô lệ. Người nào thành công là một người năng động, người ấy là nô
lệ, người ấy đang lao động. Ông bị cùm xiềng.
Nếu
ông là một nhạc sĩ, ông bị cột vào cây đàn dương cầm. Nếu ông là một hoạ sĩ, ông
sẽ bị buộc vào khung vải. Nếu ông là một nhà truyền đạo, ông bị buộc vào đống sách
vỡ cùng những lời cầu nguyện của ông. Nếu ông là một nhà văn, ông sẽ bị trói
vào những bản thảo của mình. Nếu ông là một nhà thơ, ông sẽ bị trói bên các vầng
thơ của mình. Nếu ông là một y sĩ, ông bị cột vào các bệnh nhân và sách vỡ của ông.
Nếu ông là một nhà thần học, ông sẽ bị trói bên các nghiên cứu của mình. Bất cứ
ai và người nào nổi cộm đều là một tù nhân. Và vì vậy, có một giá phải trả. Ông
làm nô lệ cho phần của mình. Ông dốc đổ đời sống mình vào đó.
Nhưng,
có một giá khác phải trả cho việc ở trong một địa vị được phước bởi Đức Chúa Trời.
Và sự thực cho thấy rằng bất cứ khi nào bạn được đưa vào địa vị đó, bạn sẽ thấy
mình bị sự ganh tỵ lâu dài, bị săn lùng và dõi theo. Đúng là như thế đó. Chúng
ta thấy việc ấy trong chương 1 của sách Phi-líp, có phải không, ở đó Phao-lô là
một tù nhân, và có người đổ thêm sự phiền muộn vào xiềng xích của ông bằng cách
thốt ra những điều xấu xa về chức vụ của ông. Họ muốn khiến cho ông cảm thấy tồi
tệ hơn việc ông đã sống là một tù nhân. Họ đang rao giảng Đấng Christ cách miệt
mài như một chức vụ tiêu cực chống lại Phao-lô.
Thật là lạ lùng khi Đức
Chúa Trời nhấc ai đó lên, tấm lòng của người khác phừng lên giận dữ, ganh tỵ và
cay đắng, ngay cả khi cá nhân đó không gây thương tích và tuyệt đối không làm hại
chi cho họ. Thế sao có người lại ghét Đa-ni-ên chứ? Một người thể ấy làm sao
người ta lại xem khinh chứ? Tôi sẽ hỏi bạn một câu khó hơn. Làm sao người ta lại
đóng đinh Ðức Chúa Jêsus Christ cho được chứ? Nhưng họ đã làm thế.
Ở Luân
Đôn, một người đương thời với Mục sư Charles Spurgeon trẻ tuổi là một nhà truyền
đạo đã cao tuổi, đã sống ở thành phố trong cả một thế hệ. Ông đã trải qua nhiều
năm miệt mài trung tín với chức vụ của mình. Và Mục sư Charles Haddon Spurgeon
đã đến, một cá nhân năng động, trẻ trung, ông đã đến Luân Đôn khi ông khoảng 20
tuổi. Và ngay tức khắc – tôi muốn nói, thậm chí không phải một năm hoặc hai hay
ba năm, nhưng ông liền chạm trán với bối cảnh đó – ông đã có một cái chạm đến nỗi
mọi người đông đảo đến nghe Mục sư Spurgeon giảng. Ông giống như một ngôi sao
xuất hiện trên bầu trời, vừa loé lên.
Và vị
Mục sư cao niên kia nói rằng khi nhiều đám đông bắt đầu xoay quanh vị Mục sư trẻ
tuổi kia, ganh tỵ và ghen tương bắt đầu len vào tấm lòng tôi và nó ăn nuốt tôi,
nó nuốt trọng tôi. Ông có mặt ở đó, là một nhà truyền đạo nổi tiếng ở London,
nhưng đám đông lại muốn nghe Spurgeon giảng. Và vị Mục sư cao niên kia nói rằng
ông đã quì gối xuống, kêu nài ở trước mặt Đức Chúa Trời, và ông trình với Chúa
về mọi sự ấy. Và khi ấy ông nói Chúa bắt đầu đặt trong lòng ông lời khen ngợi,
và cầu thay, nài xin cho vị Mục sư trẻ tuổi Spurgeon kia. Ông nói: "Ngày ấy, sau khi tôi cầu nguyện
và trình vấn đề lên cho Chúa, khi nào Spurgeon cứ thắng hơn, tôi cảm thấy như
thể chính tôi đã thắng hơn vậy". Đức Chúa Trời đã ban cho
ông sự thắng ấy.
Nhưng, không phải lúc nào việc
ấy cũng xảy ra đâu. Chúng ta hãy xem điều ngược lại khi chúng ta nhìn vào câu
4: "Các quan thượng thơ và trấn thủ bèn tìm cớ kiện Đa-ni-ên về việc
nước; nhưng họ không thể tìm được một cớ nào, hay một sự xấu nào của người, bởi
người là trung thành, trong người chẳng có điều lỗi và cũng chẳng có sự xấu". Đa-ni-ên
không có chút Watergates nào hết. Ông không có chút gì dấu giếm nơi ông. Không
có cách nào để truy tố nhân vật này.
Bây
giờ, khi một người được 90 tuổi, và ông để cho hết thảy những kẻ có chức vụ
chính trị ở quanh ông đào bới để tìm một việc gì đó và họ trở ra với số 0, đó
là một nhân vật của danh dự. Ngay thẳng, trung thực, thanh sạch, quí phái tuyệt
vời. Họ không tìm thấy lỗi, shechath, tức
là "đồi bại".
Không có đồi bại nào hết, không có lỗi, shalu, tức là "bê bối".
Nói cách khác, đồi bại là phạm tội, và lỗi lầm là tội sơ sót. Họ không thể tìm
thấy bất cứ điều gì ông đã làm mà ông đã không làm, và bất cứ điều gì ông đã không
làm mà ông lại làm. Đúng là một nhân vật nhân đức. Họ không thể tìm thấy bất cứ
điều gì.
Câu
5: “Vậy
những người đó nói rằng: Chúng ta không tìm được một cớ nào mà cáo Đa-ni-ên
nầy, nếu chúng ta chẳng tìm trong sự thuộc về luật pháp Đức Chúa Trời nó". Giờ
đây, con người, tôi ước ao chúng ta có thì giờ để chỉ giảng về câu Kinh Thánh đó.
Khi họ không thể tìm thấy bất cứ điều gì nghịch lại bạn trừ ra sự thực là bạn
đã bị bán cho Đức Chúa Trời của bạn, khi ấy bạn đang làm ứng nghiệm sự thực
nguyên tắc của Tân Ước chịu khổ vì cớ sự công bình. Việc duy nhất mà họ nói là “chúng
ta không tìm được một cớ nào mà cáo”, ấy là ông ấy đã hoàn
toàn phục theo Đức Chúa Trời của ông. Đúng là đáng khen ngợi. Họ không thể tìm
thấy gì khác. Nếu có bất cứ điều gì, họ sẽ tìm cho ra nó, và họ không thể.
Câu
6: "Các
quan thượng thơ và trấn thủ đó bèn vào chầu vua và tâu rằng: Hỡi vua Đa-ri-út,
chúc vua sống đời đời!" Mỗi
lần bạn đi vào triều, bạn phải nói ra câu ấy. Đa-ni-ên thậm chí nói như thế trong
hang sư tử. Câu nói đó đưa ra mục tiêu, nhưng khác đi. Câu 7: "Hết thảy các quan thượng thơ trong nước, các
quan lãnh binh, các quan trấn thủ, các nghị viên và các đại thần đều đồng tình…”.
Bây giờ, đấy chỉ là sự ngăm dọa rất hay bởi vì là do nhiều người đồng tình. Có
một nhóm người đã tạo ra âm mưu ấy. Không phải hết thảy họ đều đồng ý đâu,
nhưng cứ chồng chất mọi thứ của các cá nhân đó thôi, chỉ mô phỏng thôi, và hết
thảy họ đã bàn bạc, họ nói: "lập một cấm lịnh nghiêm nhặt trong ba mươi
ngày, hễ ai cầu xin thần nào hay một người nào ngoài vua, thì, hỡi vua, kẻ ấy
sẽ phải quăng vào hang sư tử".
Bạn
đã nghe nói về nữ hoàng trong một ngày chưa? Đây là vua trong 30 ngày. Chúng ta
muốn bạn làm Thần Linh trong ba mươi ngày. Bây giờ, khi bạn có thể được chọn làm
Thần Linh, bạn đã có thứ thần học thật tồi. Và khi bạn chỉ là Thần Linh trong
30 ngày, thì thần học ấy thậm chí còn tồi tệ hơn. Họ đã đến ở chỗ nầy: "Chúng tôi đã hỏi ý kiến của tất
cả các thống đốc, các vương tử, các quan thượng thơ, các cố vấn, và các quan
trưởng, và mọi người đồng tình chúng ta phải đưa ra một đạo luật. Bạn thật là
tuyệt vời, bạn rất xứng đáng làm Thần Linh trong 30 ngày. Và chúng ta sẽ quyết
– chúng ta quyết trao cho bạn đặc ân ấy. Và chúng ta chỉ muốn lập ra một quy tắc
ở đây, bất cứ ai đưa ra lời cầu xin bất kỳ thần hay người nào trong 30 ngày, trừ
phi đó là bạn, sẽ bị ném vào hang sư tử".
Có
điều thú vị ở đây, ấy là nếu bạn xem lại câu 6, có một động từ ở đó: "hiệp lại với nhau"
[“assembled together”, theo bản Kinh Thánh Anh ngữ]. Đây
là một động từ rất thú vị theo tiếng A-ram. Động từ nấy có ý nói họ "đã vội vã đến và sôi nổi". Giống
như một đám hỗn loạn vậy. Họ khuấy đảo và lộn xộn khi họ đến nơi đó. Một động từ
rất mạnh, và nó chỉ ra một nhóm đông những người đã bày ra âm mưu này. Nhưng
không phải ai cũng đồng ý, bởi vì Đa-ni-ên là lãnh đạo và ông đã không đồng ý.
Tôi chắc rằng thậm chí chẳng có ai hỏi ý kiến ông nữa là.
Vì
vậy, hết thảy họ kéo đến và buông ra lời nói dối của họ. Khi họ nói: "hết
thảy các quan thượng thơ trong nước", điều đó không
đúng. Có một người trong số họ đã không đồng ý, có lẽ thậm chí không biết nữa.
Chúng ta muốn đưa ra một đạo luật và chắc chắn một chiếu chỉ. Và bằng cách đó, hai
lần sử dụng nó, một đạo luật hoàng gia và một chiếu chỉ chắc chắn, cho bạn thấy
họ muốn ràng buộc và mạnh mẽ như thế nào, rằng không ai, không trừ một người
nào có thể thờ phượng hoặc đưa ra lời cầu xin bất kỳ ai trừ ra vua trong 30
ngày.
Đồng
thời, trong những ngày đó, tất nhiên, tôn giáo của họ đã thiết lập các vị thần
giống như con người. Các vị thần của họ cũng có lỗi lầm như con người có. Nói
cách khác, họ lập hình tượng Thần của họ từ chính hình ảnh của họ. Và vì vậy,
các vị thần của họ đã sai lầm. Và nói rằng một người có thể là một vị Thần đối
với chúng ta hoàn toàn là lố bịch, bởi vì Đức Chúa Trời là thánh khiết, công
bình, và trọn vẹn, và không có một sự bất toàn nào của con người.
Nhưng
đối với họ, điều đó không phải là vấn đề. Thực vậy, nếu chúng ta nghiên cứu lịch
sử một cách cẩn thận, chúng ta sẽ thấy rằng người Ai-cập tin rằng các Pha-ra-ôn
đều là thần linh, người La-mã tin rằng Caesar là thần linh. Các Ptolemies được
cho là thần linh. Có những dấu hiệu cho thấy Seleucids tuyên bố vai trò của thần
linh. Ngay cả dòng Hê-rốt, bạn sẽ nhớ trong Công Vụ các Sứ Đồ 12, đã chiếm lấy
vị trí của các thần. Vì vậy mà các vua làm việc này không phải là hiếm.
Phải,
Đa-ri-út đã bị tâng bốc. Tôi muốn nói, khi bạn gặp gỡ toàn bộ phận chính trị và
họ muốn làm điều đó cho bạn, nào, kháng cự lại là điều rất khó. Và vì vậy, ông
ta không cần phải suy nghĩ. Ông ta bởi cảm xúc bị cuốn hút vào toàn bộ sự việc
kia. Câu 8: “Bây
giờ hỡi vua, hãy lập điều cấm đó và ký tên vào, hầu cho không đổi thay đi, theo
như luật pháp của người Mê-đi và người Phe-rơ-sơ, không thể đổi được”.
Bây
giờ, chúng ta không biết hết về luật pháp của người Mê-đi và người Ba-tư, trừ phi
chúng ta biết bạn đã từng làm luật, bạn không thể vi phạm nó. Điều đó được xây
dựng trong hệ thống của họ. Và hầu hết các nghiên cứu chỉ ra rằng lý do họ đã làm
điều đó là để ngăn chặn các luật lệ kỳ quặc, rằng một khi luật đã được lập, thì
nó đang ràng buộc. Và như vậy, họ rất cẩn trọng về các luật lệ này.
Nhưng
khi những kẻ này đến và chạm đến vua này vào thời điểm dễ bị tổn thương của
mình, cái tôi của ông, ông đã đáp ứng. Câu 9: "Vậy vua Đa-ri-út bèn ký tên lập cấm lịnh đó".
Bây giờ đã có một đạo luật. Bạn thực hiện việc cầu xin bất kỳ thần nào trừ ra thần
này, và bạn bước vào hang của sư tử.
Vì
vậy, chúng ta nhìn thấy sự
thăng cấp và âm
mưu. Có một từ thứ ba, bền đỗ, câu 10, bền đỗ. Bây giờ từ đó quay lại Đa-ni-ên, và tôi muốn
bạn nhìn biết điều ông đã làm. "Khi Đa-ni-ên nghe rằng chỉ dụ đó đã ký tên
rồi, thì về nhà mình (những cửa sổ của phòng người thì mở về hướng
Giê-ru-sa-lem). Tại đó, cứ một ngày ba lần, người quì gối xuống, cầu nguyện,
xưng tạ trước mặt Đức Chúa Trời mình, như vẫn làm khi trước". Tôi
thích sự bền đỗ đó.
"Rồi mấy người nầy tập trung lại,
thì thấy Đa-ni-ên cầu xin và khấn nguyện trước mặt Đức Chúa Trời". Bạn
biết đấy, điều mà tôi nhìn thấy đây là sự bền đỗ. Họ lập đạo luật, còn Đa-ni-ên
trở về phòng mình và làm những gì ông đã làm mỗi ngày. Khuôn mẫu nguyên được
David lập ra trong Thi thiên 55: "Buổi chiều, buổi sáng, và ban trưa, tôi sẽ
than thở rên siếc; Ngài ắt sẽ nghe tiếng tôi”.
Và, tất nhiên, vào thời buổi ấy, thường thì trên mái của một ngôi nhà có phòng cao
nhỏ trên đó.
Chúng
ta thấy chúng ngay cả trong thời kỳ Tân Ước. Một nơi ẩn náu, và chúng không có
cửa kính. Những gì họ làm là gắn mạng lưới qua cửa sổ, và họ sẽ để chúng cứ mở ra
và sự ấm áp của khu vực Ba-by-lôn, một nơi rất nóng, và cơn gió nhẹ thổi qua
làm mát cho họ.
Vì
vậy, ông sẽ đi lên đó và thông qua lưới cửa sổ kia người ta sẽ nhìn thấy ông,
và ông sẽ phải hướng mặt về thành Giê-ru-sa-lem vì đó là chỗ mà lòng ông mong mỏi,
là dân sự của Đức Chúa Trời, và là thành của Đức Chúa Trời, là tượng trưng cho Đức
Chúa Trời đối với ông. Và chắc chắn, ông sẽ cầu nguyện, vì sự hoà bình của thành
Giê-ru-sa-lem, sự phấn hưng của thành phố, và bất cứ điều gì khác có trong tấm
lòng ông, lời xưng tội, và bất cứ điều gì khác, ông đã làm việc ấy theo cách mà
ông luôn làm. Bền đỗ.
Nói
cách khác, người ta có thể lập luật của họ, song khi luật lệ giao chéo và vi phạm
các qui tắc mà Đức Chúa Trời đề ra, chúng ta không phải lo âu về các thứ luật
đó. Và chúng ta phải đạt tới mục đích có trong sách Công Vụ các Sứ Đồ, có phải
không, ở đó Phi-e-rơ bảo chúng ta phải vâng lời Đức Chúa Trời hơn là vâng lời người
ta.
Bây
giờ, bạn nói: "Phải,
Đa-ni-ên không thể kín đáo được một chút sao? Ông không thể đóng cửa sổ lại và
cầu nguyện sao?" Được chứ. "Bộ ông không thể nhịn trong 30 ngày và vừa đi vừa
trò chuyện với Chúa, và như thế thì chẳng ai thấy được gì hết?" Được
chứ. Nhưng bất kỳ một sự thỏa hiệp nào đi nữa thì bổn tánh của ông không cho
phép như vậy.
Thí
dụ, khi họ thiêu Polycarp, nơi giàn giáo tại Smyrna năm 155TC, ông đã là Cơ đốc
nhân trong 86 năm. Trước khi châm lửa, họ gọi Polycarp rồi nói: "Hãy chối Chúa thì cứu lấy mạng
mình". Với sự yên lặng bảo đảm và với giọng nói chắc
chắn, đây là những gì ông đã nói: "Tám
mươi sáu năm tôi đã phục vụ Ngài. Ngài chưa bao giờ làm hại cho tôi bất cứ điều
gì. Tại sao tôi phải từ bỏ Ngài lúc bây giờ chứ?
"Và Polycarp, môn đệ của Giăng, với những lời ngợi khen trên môi miệng ông
và một sự cam kết thầm lặng đối với Chúa, ông nhìn xuống những ngọn lửa và chấp
nhận chúng là ý muốn của Đức Chúa Trời.
Tôi
nghĩ đến Si-môn Phierơ. Si-môn Phierơ đang ở trong tù. Qua ngày sau thì ông sẽ
bị đem hành quyết, một thiên sứ đến cứu ông, và phải đánh thức ông vì ông đang ngủ
say. Thật là lạ lùng. Nó giống như bài hát ấy: "Ngài không hề ngủ, Ngài không hề nhắp mắt".
Tôi nhớ gã ở dưới đáy tàu và gã rất sợ hãi, rồi cuối cùng gã đọc câu ấy, và ngước
lên nhìn lên Chúa rồi nói:
"Bao lâu Ngài còn tỉnh thức, không có nghĩa là cả hai chúng ta mất ngủ.
Tôi nghĩ rằng tôi sẽ chợp mắt một chút được rồi đây".
Và
vì vậy, sự bền đỗ. Đúng là một người thực sự tin kính và nhân đức. Và khi ấy
có một từ chính khác đưa chúng ta qua phân đoạn và đó là từ “truy
tố”, câu 12. Và bấy giờ âm mưu được làm cho dày thêm. “Họ bèn đến chầu vua và tâu cùng vua về cấm
lịnh của vua”. Họ
đã dò xét Đa-ni-ên. Họ đã nhìn thấy mọi việc ông đã làm.
Tôi
dám chắc rằng họ đã đến vào buổi sáng, và họ nhìn thấy vụ việc ngay lập tức, có
thể họ đã nhìn thấy việc ấy vào buổi trưa. Có lẽ đúng là ban trưa. Họ đã đến và
nhận được chiếu chỉ phát ra vào buổi sáng. Họ đến đó, chỗ của Đa-ni-ên vào buổi
trưa để xem ông có làm việc ấy hay không!?! Họ chỉ nhìn thấy một lần, rồi họ quay
trở lại với nhà vua.
Rồi họ nói về chiếu chỉ.
“Hỡi vua, vua
chẳng từng ký tên vào một cấm lịnh rằng trong ba mươi ngày, hễ ai cầu xin thần
nào hay người nào ngoài vua, thì sẽ phải quăng vào hang sư tử đó chăng? Vua trả
lời rằng: Sự đó là thật, theo như luật pháp của người Mê-đi và người Phe-rơ-sơ,
không thể đổi được”.
Điều
đó đúng đấy. "Họ
bèn đáp lại và tâu vua rằng: Đa-ni-ên, là một trong những con cái phu tù Giu-đa" –
và họ cứ ném mãi điều đó vào Đa-ni-ên. Kẻ ngoại quốc kia. Đó là tù nhân. Kẻ phu
tù ấy. Thậm chí không phải là cùng một bầy đâu "không có lòng kiêng nể vua chút nào”.
Có thật không? Điều đó không đúng, có phải không? Đa-ni-ên là một tôi tớ trung
thành và trung tín, ông không hề vi phạm các nguyên tắc của vua. Ông đã nhìn
xem vua đúng theo cách mà người ta đã nhìn xem đến nhà vua, giống như Chúa chúng
ta đã phán: ông "trả cho Xê-sa những gì thuộc về
Xê-sa". Và họ nói tiếp: "hỡi vua, dầu đến cấm lịnh vua đã ký tên cũng
vậy; song nó cứ một ngày cầu nguyện ba lần".
Bây
giờ, tôi biết họ không phải đi lòng vòng cả ngày để nhìn thấy cả ba lần đâu. Họ
chỉ nhìn thấy có một lần mà thôi, và đấy là sự giả định những gì ông đã làm, và
đó là một sự giả định chính xác. Và như vậy, họ đến gặp nhà vua. Ông ta khởi sự
làm vua trong một tháng, thần linh trong một tháng, và loanh quanh như kẻ dại
trong một ngày. Đúng là một kẻ ngốc. Đúng là một việc ngu ngốc để làm, không
suy nghĩ gì cả. Và bạn biết đấy, ông ta đang nổi giận với ai rồi? Bản thân ông
ta là một người khôn ngoan. Ông ta nổi giận với bản thân mình.
Câu
14: "Khi vua nghe những lời đó, thì lấy làm buồn bã lắm". Bạn
biết đấy, ít nhất người này cũng có lòng thành thật để đổ lỗi cho sự việc đã xảy
ra. Chính cái tôi của ông ta đã bắt lấy ông ta. Sự cám dỗ luôn luôn có ở đó,
nhưng chúng ta không rơi vào cái bẫy đó, trừ phi chính cái tôi của mình có liên
quan đến. Và tôi thích câu này: "vua định lòng giải cứu Đa-ni-ên, và mãi đến
khi mặt trời lặn, cố hết sức tìm thể để giải cứu người”.
Chúng
ta hãy giả định sự việc đã được ký kết vào buổi sáng. Họ hối hả đến xem điều Đa-ni-ên
sẽ làm vào buổi trưa. Đa-ni-ên đang cầu nguyện. Họ chạy lại và tâu với nhà vua,
và bây giờ ông đã có mọi thứ vào buổi trưa cần phải giải quyết, theo thông lệ của
họ, phải thực hiện ngay trước khi trời tối. Và như vậy, ông ta đã có đủ thứ lúc
ban trưa. Và ông ta chẳng có thể viện lý gì hợp lệ khả thi. Ông ta đã lần theo
mọi cách. Đó là hàm ý của câu 14: "vua định lòng giải cứu Đa-ni-ên, và mãi đến
khi mặt trời lặn”.
Giờ
đây, tôi không biết ông ta đã làm gì, nhưng có thể ông ta đã cố gắng tìm kiếm một
lỗ hổng trong luật pháp, hoặc có lẽ ông ta đã tìm cách bao biện một một cái gì
đó trong luật lệ quá khứ của Mê-đi Ba-tư để có thể giải quyết việc nầy. Song về
mặt kỹ thuật, chẳng có cách nào khác cả. Và bạn biết tôi thích gì về việc nầy
không? Đa-ni-ên không hề nói một lời. Đa-ni-ên không hề đưa ra một lý lẽ nào của
riêng mình. Đa-ni-ên không hề tự biện hộ. Giống như Đấng Christ, ông là chiên
câm trước mặt kẻ hớt lông và không hề mở miệng.
Bạn
thấy đấy, ông đã có lòng tin nơi Đức Chúa Trời qua những năm tháng này rằng ông
sẽ chỉ phục theo Đức Chúa Trời mà thôi. Chẳng có biện pháp phòng vệ nào hết, có
phải không? Chẳng có gì hết – cái điều mà ông có thể nói là trừ phi – "Được thôi. Ta sẽ cầu nguyện và
ta sẽ cứ mãi cầu nguyện". Chẳng có gì để nói hết.
Như
vậy, sự thăng cấp, âm mưu, sự bền
đỗ, sự truy tố. Và một từ chính khác xuất hiện ở câu 16, và
đó là từ "án phạt".
Câu 15 chép: "Nhưng các người đó nhóm lại cùng vua và tâu rằng: Hỡi vua, xin
biết rằng theo luật pháp của người Mê-đi và người Phe-rơ-sơ, hễ là cấm lịnh hay
chỉ dụ nào mà vua đã lập định rồi, thì không thể thay đổi được". Bạn
đang bị mắc kẹt rồi. "Bấy giờ vua truyền điệu Đa-ni-ên đến, và phải
ném người vào hang sư tử”.
Bây
giờ, đây là bầy sư tử thật, quí vị ơi, bầy sư tử thật đấy. Bầy sư tử bị cố ý bỏ
đói để được sử dụng như những sát thủ. Và tôi không biết có bao nhiêu con có mặt
ở đó, nhưng không chỉ có một hai con đâu. Tôi đã nhìn thấy các bức tranh, ở đó
có hai hoặc ba con sư tử. Không, tôi không biết là có bao nhiêu con, nhưng phải
có cả bầy sư tử, bởi vì khi bạn đến cuối chương và mọi thứ bắt đầu rơi xuống
trên đầu của những kẻ đã bày chuyện nầy ra, người ta đã quăng hết thảy họ vào
hang đó, và người ta cũng quăng luôn cả gia đình của họ vào đấy, và họ bị sư tử
táp lấy trước khi chân họ đụng đến mặt đất. Có rất nhiều sư tử ở đó.
Một
nhà giải kinh nói:
"Ồ, chỉ có mấy con sư tử thôi, và Đa-ni-ên tìm thấy một góc và trốn
đi". Không, không, không. Đó là một cái hang lớn, có phải
không? "Và ông đã
tìm thấy một góc rồi ông trốn trong đống rơm hoặc bất cứ thứ gì".
Không, có rất nhiều sư tử. Và chúng là bầy sư tử như bạn nghĩ về loài sư tử.
Và thế
là: "Người
ta bèn đem đến một hòn đá chận nơi cửa hang”. Nó rất có thể là một cái hang bên sườn đồi,
và có lối vào ở nơi thấp kia, họ có một hòn đá chận ở đó. Rồi khi ấy trên đỉnh
đồi, có một cái lỗ với một rào chắn trên đó. Lý do chúng ta tin rằng đó là chữ "hang" theo
nghĩa đen là chữ gôb trong
tiếng A-ram, có liên quan đến từ Hy-bá-lai gûwb có
nghĩa là "hố".
Và như vậy, đó là một hố. Về mặt cơ bản, đó là ý tưởng. Gûwb
trong tiếng Hy-bá-lai có nghĩa là "đào".
Và thế
là ở đây bạn có một loại hố dưới lòng đất với lối vào bên hông, ở đó họ sẽ có lối
vào hang động tự nhiên để cho sư tử vào ra, hoặc làm bất cứ điều gì họ cần để cho
chúng ăn, rồi khi ấy lối vào ở phía trên là chỗ để quan sát xem coi kẻ bị hành
quyết sẽ bị dứt điểm như thế nào.
Và
nhân tiện, đã có một số nghiên cứu thú vị được thực hiện trong lãnh vực khảo cổ
học. Họ đã phát hiện ra một số hố nhốt sư tử mà các vị vua sử dụng làm chỗ hành
quyết. Keil, nhà giải kinh nổi tiếng về Cựu Ước, ông mô tả một cái hố đó. Ông
cho biết: "Có một cái
hang hình vuông rất rộng dưới lòng đất, có một bức tường ngăn ở giữa nó, được lắp
cửa, mà người giữ cửa có thể mở và đóng từ phía trên. "Bằng cách ném thức
ăn, ông ta dụ bầy sư tử từ phòng này sang phòng kia, rồi sau đó đóng cửa lại,
chúng bước vào chỗ trống với mục đích làm cho phòng ấy được sạch sẽ. Hang động
được mở ra từ phía trên, miệng hang có một bức tường bao quanh cái sân cao một
thước rưỡi, qua đó người ta có thể nhìn xuống cái hang". Bây
giờ có thể hình dung hang ấy là một khu vực rộng lớn ở một sườn đồi.
Bây
giờ bạn để ý thấy có chép trong câu 16: "Bấy giờ vua truyền điệu Đa-ni-ên đến, và phải
ném người vào hang sư tử. Vua cất tiếng nói cùng Đa-ni-ên rằng: Đức Chúa Trời
ngươi là Đấng ngươi hằng hầu việc, sẽ…". sao
chứ? "sẽ
giải cứu ngươi".
Bây giờ, ông ta lấy đâu ra ý tưởng ấy chứ? Hãy nghe đi, bạn biết đủ về Đa-ni-ên
nếu bạn có mặt với chúng tôi trong nghiên cứu này để biết rằng nếu Đa-ni-ên
treo cổ trong một năm, ít nhất là bây giờ, và có lẽ là hai lần, Đa-ri-út đã
nghe giảng hết sứ điệp nầy đến sứ điệp khác về Đức Chúa Trời. Và bạn cũng sẽ biết
rằng lịch sử của những gì Đa-ni-ên đã nhìn thấy Đức Chúa Trời trong quá khứ đã
được ông ta biết đến, và đấy có lẽ là một trong những lý do ông ta đã bổ nhiệm
Đaniên vào địa vị mà hiện ông đang có đây.
Đối
với tôi, dường như rõ ràng rằng Đa-ni-ên sẽ là người sẽ tỏ ra những gì ông đã tin.
Ông có liên quan đến các phép lạ. Ông đã có liên quan đến việc đưa ra lời
khuyên thả người Do-thái trở về quê hương. Và vì vậy tôi dám chắc rằng sứ điệp
rất rõ ràng về quyền phép của Đức Chúa Trời của Đa-ni-ên, Ngài đã giải cứu ông.
Tôi dám chắc nhân vật nầy vốn biết rất rõ về câu chuyện nói tới A-xa-ria, Mi-sa-ên,
và người kia – tôi không thể nghĩ đến tên Hêbơrơ kia của ông – Sa-đơ-rắc,
Mê-sác, và A-bết-nê-gô ở xứ Ba-by-lôn; nhưng họ đã được giải cứu khỏi lò lửa hực.
Và vì thế ông ta biết rằng Đức Chúa Trời này có thể làm điều đó và điều này thật
lớn lao vì điều này cho thấy nỗ lực truyền giáo của Đa-ni-ên đang có một số kết
quả.
Thế
là: "hòn
đá chận nơi cửa hang, và vua đóng ấn mình cùng ấn các đại thần nữa, hầu cho
không có điều gì thay đổi được về Đa-ni-ên”.
Bây
giờ, mọi sự này dẫn đến một từ chính khác, giữ gìn. Câu 18: "Sau đó, vua trở về cung mình". Bạn
biết đấy, Đức Thánh Linh thật rất tinh tế về mọi việc. Bạn nghĩ rằng bạn muốn
đi thẳng vào hang sư tử, có phải không? Thí dụ, tôi muốn nói là nếu tôi xem một
cuốn phim, và cuốn phim đã lên đến đỉnh điểm chỗ mà họ đã đưa Đa-ni-ên đến rồi họ
thòng ông xuống hang sư tử, và rồi họ cắt ở chỗ cung điện của nhà vua, tôi muốn
đi: "Ồ, bạn biết không?
Tôi không muốn nhìn cái cung điện của nhà vua. Hãy đưa tôi trở lại hang sư tử
kìa. Tôi muốn xem những gì đang xảy ra trong cái hang sư tử đó".
Hãy cắt chỗ cung điện đi. Đừng bao giờ nói tới bất cứ điều gì về hang sư tử, đừng
nói.
"và suốt đêm kiêng ăn".
Ai quan tâm, có phải không? Chuyện gì đã xảy ra trong hang sư tử chứ? Kinh
Thánh chép: "và
suốt đêm kiêng ăn, cũng không đem bạn nhạc đến trước mặt mình". Kỳ
thực tiếng A-ram là "trò
tiêu khiển". Có thể là âm nhạc, phụ nữ, vũ công, bất cứ
điều gì họ sử dụng để cho nhà vua tiêu khiển. Nhưng ông ta không muốn bất cứ thứ
gì trong số đó: “Không
có âm nhạc, không có vũ công, không có thức ăn, không có gì cả". “Và vua không ngủ được". Ông
ta cứ đi lòng vòng ở đó.
"Đoạn, vua dậy sớm, khi hừng sáng, vội vàng…". Đồng
thời, vua "dậy sớm, khi hừng sáng", sát
nghĩa ý nói là "rạng
bình minh". Ngay khi mặt trời mọc, ông ta đã đi rồi. "Và
vua vội vàng", và phần lớn các nhà giải kinh cảm thấy
ông ta có lẽ vào khoảng 62 hoặc 63 tuổi, vì vậy ông ta hối hả vì tuổi tác của
mình. Nhìn xuống hang sư tử, vào lúc rạng bình minh để thử xem chuyện gì đang
diễn ra. Bây giờ điều này cho thấy rằng ông ta đã có đôi chút đức tin, có phải không,
nơi Đức Chúa Trời của Đa-ni-ên.
Câu
20: “Khi
vua đến gần hang, lấy giọng rầu rĩ mà kêu…”, một
giọng rầu rĩ, một giọng đau khổ, một giọng lo âu: “kêu Đa-ni-ên…”, bạn
biết đấy, hy vọng điều tốt nhứt, nhưng có lẽ tin điều tệ hại nhất. “Hỡi Đa-ni-ên, tôi tớ Đức Chúa Trời hằng sống!”
Bây
giờ, bạn nghĩ ông ta học biết điều đó ở đâu chứ? Bạn nghĩ ông ta học được câu
nói ấy ở đâu chứ: "tôi tớ của Đức Chúa Trời hằng sống"?
Tôi sẽ chỉ cho bạn biết chỗ ông ta học biết câu nói ấy, từ Đa-ni-ên. Đa-ni-ên
đã cung ứng cho ông nhiều bài học. "Tôi tớ Đức Chúa Trời hằng sống! Đức Chúa Trời
ngươi mà ngươi hằng hầu việc có thể giải cứu ngươi khỏi sư tử được chăng?" Nói
thẳng ra, đây là phần sau của câu hỏi đó? Có phải Ngài? Bây giờ chúng ta đang ở
chỗ mấu chốt của vấn đề, có phải không? Có phải Đức Chúa Trời có quyền không?
Phải, câu 21:
"Bấy
giờ Đa-ni-ên tâu cùng vua rằng: Hỡi vua, chúc vua sống đời đời!" Phải
có thái độ nhã nhặn ở đó khi bạn nói chuyện với một vị vua, không thể nói: "Tôi ổn" được,
bạn phải nói: "Hỡi vua, chúc vua sống đời đời".
Câu 22: "Đức Chúa Trời tôi đã sai thiên sứ Ngài, và bịt miệng các sư tử". Và
đồng thời, có thể được diễn giải rộng ra là Ngài cũng coi chừng mấy cái hàm của
chúng nữa, bởi vì chúng có thể xé nát ông ra thành nhiều mảnh.
Đức
Chúa Trời đã sai một thiên sứ. Bấy giờ, thiên sứ rất mạnh mẽ. Một thiên sứ xử
lý 185.000 quân A-si-ri và Ngài giết hết thảy họ. Vì vậy, một thiên sứ sẽ đổi
thành nhiều đấy. “Đức Chúa Trời tôi đã sai thiên sứ Ngài, và bịt miệng các sư tử,
nên chúng nó không làm hại chi đến tôi, bởi tôi đã được nhận là vô tội trước
mặt Ngài”.
Điều đó không có gì để tự hào cả. Đó là sự thật. Và nếu đó là sự thật, đó chẳng
phải là tự hào, có thấy không? "Hỡi vua, đối với vua cũng vậy, tôi chẳng từng
làm hại gì".
Chỉ để ghi thành tích đấy thôi.
Há
chẳng thú vị sao, ông tự biện hộ chỉ sau khi ông trao cho Đức Chúa Trời cơ hội
đặt ông vào thử nghiệm? Ông đặt mạng sống mình vào tay của Đức Chúa Trời
trong cái hang sư tử kia. Sự việc giống như thể ông đang nói: “Nào, lạy Chúa, con không hiểu lý do
tại sao con phải ở trong hang sư tử đó, nhưng có thể Ngài có một lý do. Có
thể Ngài biết điều chi đó trong đời sống con chưa đúng và đây là một phần của
điều đó”. Và chỉ sau khi Đức Chúa Trời đã giải cứu ông, ông
mới có thể nói: “Tôi
chẳng làm chi hết. Tôi vô tội”. Làm sao bạn biết mình là
vô tội chứ? Vì Đức Chúa Trời đã có một cơ hội trọn vẹn để sửa phạt tôi và
tôi không làm việc ấy. Ông chờ đợi để Đức Chúa Trời đánh giá việc ấy.
Rồi,
câu 23 chép: “Bấy
giờ vua mừng rỡ lắm, và truyền đem Đa-ni-ên lên khỏi hang”. Giờ
đây, một lần nữa cho thấy đây là cái hố, có lẽ phải thòng dây xuống, và người gần
90 tuổi này đã nắm lấy sợi dây, và ông được kéo lên. "Vậy Đa-ni-ên được đem lên khỏi hang, và người
ta không thấy một vết tích nào trên người, bởi người đã nhờ cậy Đức Chúa Trời
mình".
Đa-ni-ên
viết ra chương thứ sáu và Đa-ni-ên đang nói rằng đây là phần chứng thực cho đức
tin vĩ đại của ông nơi Đức Chúa Trời. Ông tin Đức Chúa Trời và Đức Chúa Trời đã
tôn vinh đức tin của ông. Bây giờ bạn muốn biết đức tin ấy không? Sự việc không
phải luôn luôn xảy ra theo cách đó, có đúng không? Ê-sai cũng tin Đức Chúa Trời,
nhưng ông bị cưa làm hai. Phao-lô cũng tin Đức Chúa Trời, và ông đặt đầu mình
lên hòn đá, và lưỡi búa loé lên trong ánh mặt trời, và chặt đứt nó khỏi thân thể
ông. Phi-e-rơ tin Đức Chúa Trời, và ông bị đóng đinh ngược đầu trên cây thập tự.
Tin
nơi Đức Chúa Trời không có nghĩa là bầy sư tử sẽ không ăn thịt bạn. Đã có những
người tuận đạo xuyên suốt lịch sử Đức Chúa Trời xử lý với những người đã tin theo
Đức Chúa Trời và họ đã chết. Vấn đề, ấy là chúng ta chấp nhận theo ý muốn của Đức
Chúa Trời. Nếu phải sống thì sống. Nếu phải chết, thì chết. Nhưng trong cả từng
trường hợp, chúng ta không bao giờ bị đánh bại.
Thực
vậy, nếu Đa-ni-ên bị sư tử ăn thịt, ông sẽ ở trong sự hiện diện của Đức Chúa Trời,
có phải không? Điều đó sẽ tốt hơn là nhìn lên Đa-ri-út và nói: "Hỡi
Vua, chúc vua sống đời đời". Ông không thể bị mất.
Chúng ta không bao giờ bị mất. Nếu ông bị xé nát ra, thiên sứ đó đến sẽ bồng
ông vào trong sự hiện diện của Chúa đặt vào lòng của Ápraham.
Bây
giờ, mọi sự nầy được nối theo sau bằng một từ chính khác, cụm từ: “trừng
phạt”. Câu 24: "Theo lịnh vua, những kẻ đã kiện Đa-ni-ên”, phần của các quan trấn thủ, các vương tử, các
quan thượng thơ nào đã cáo giác ông, "cùng con cái và vợ họ đều bị điệu đến quăng
vào hang sư tử. Khi họ chưa đến dưới đáy hang, thì những sư tử đã vồ lấy và xé
xương hết thảy". Thật
đáng kinh ngạc. Ở đó phải có một lượng lớn các con sư tử.
Và có
người nói: "À, bạn biết
đấy, Đa-ni-ên không bị ăn vì bầy sư tử không đói". Chúng
đói đấy chứ. Chúng đói đủ để ăn số đông người như thế nầy. Thậm chí có người còn
gợi ý rằng Đa-ni-ên không bị ăn thịt vì bầy sư tử già rồi. Và chúng giống như
Clarence, bạn biết đấy, con sư tử bị lác mắt. Thật đáng kinh ngạc khi các nhà giải
kinh tự do tìm cách xử lý với Kinh Thánh.
Nhưng
mục đích của phân đoạn Kinh Thánh nầy ở đây là để tỏ ra cho bạn thấy chúng
không già và không có răng đâu. Chúng không phải là no đủ đâu. Chúng đói khát đấy.
Và chúng rất hung dữ vì chúng đã xé xác những người đó trước khi họ chạm đất. Đức
Chúa Trời đã làm ra một phép lạ. Một bối cảnh kinh khủng, hình ảnh của báo trả
và báo thù của Đức Chúa Trời.
Đồng
thời, đây là một cái nhìn rất thú vị về luật lệ của tà giáo. Luật pháp của người
Mê-đi và người Ba-tư nói: "Vì
tội lỗi của một người, mọi người thân của người ấy đều phải chết".
Đó là luật pháp của người Mê-đi và người Ba-tư. Và họ đã làm theo y như vậy.
Chúng
ta thấy sự thăng cấp, âm mưu,
sự bền đỗ, sự truy tố, án phạt, giữ gìn, trừng phạt. Thêm
hai từ chính nữa, công
bố. Câu 25: "Bấy giờ, vua Đa-ri-út viết cho hết thảy các
dân, các nước, các thứ tiếng", bạn
nhớ rằng có ba thành phần được sử dụng nhiều lần trong sách Đa-ni-ên, chỉ bao gồm
tất cả mọi người trong lãnh vực - "ở khắp trên đất” -
ít nhất là địa cầu mà ông mường tượng khi ấy - "Nguyền cho sự bình an các ngươi được thêm lên! Ta ban chiếu chỉ rằng, trong khắp miền nước
ta, người ta phải run rẩy kính sợ trước mặt Đức Chúa Trời của Đa-ni-ên". Điều
đó há chẳng tuyệt vời sao?
Một
nhân vật, và thực sự ông ta đang tác động toàn bộ đế quốc. Giờ đây toàn bộ Đế quốc
Mê-đi Ba-tư bị chiếu chỉ buộc phải run rẩy và kính sợ trước mặt Đức Chúa Trời của
Đa-ni-ên. Chiếu chỉ không bắt lấy nhiều người. Đó phải là một chiếu chỉ đúng đắn
kia. "Vì
Ngài là Đức Chúa Trời hằng sống và còn đời đời. Nước Ngài không bao giờ bị hủy
diệt, và quyền Ngài sẽ còn đến cuối cùng".
Ông ta nói giống như tác giả Thi thiên, và ông ta là một vị vua theo tà giáo.
Nào,
Đức Chúa Trời đã đưa ra một số chứng tỏ rất thuyết phục trong sách này, có phải
không? Các nước đến rồi đi, và dù họ là người Ba-by-lôn hay Mê-đi Ba-tư, khi Đức
Chúa Trời đặt người của Ngài vào đúng vị trí, sứ điệp của Ngài đã được thông
qua.
"Ngài cứu rỗi” – câu 27: “và giải thoát,
làm những dấu lạ sự lạ ở trên trời dưới đất, đã cứu Đa-ni-ên khỏi quyền thế sư
tử”.
Cho
phép tôi hỏi bạn một câu đơn giản. Ai nhận được sự vinh hiển trong chương nầy?
Đa-ni-ên? Không phải Đa-ni-ên đâu. Không phải Đa-ni-ên dù chỉ một phút thôi.
Đa-ni-ên đã có mặt ở đó, thế thôi. Đức Chúa Trời nhận được sự vinh hiển. Tôi
tin rằng nếu bạn nhìn thấy một sợi chỉ xuyên qua sách Đa-ni-ên, sợi chỉ ấy không
phải là sự tôn vinh cho Đa-ni-ên đâu, mà là cho sự oai nghi của Đức Chúa Trời, Ngài
đứng chống lại các nước thế gian và nắm lấy quyền tễ trị của Ngài.
Sau cùng, sự hanh thông. "Đa-ni-ên cứ được thạnh vượng như vậy trong đời
vua Đa-ri-út và vua Si-ru là người Phe-rơ-sơ”.
Ông được thịnh vượng. Giờ đây, tôi muốn bạn lắng nghe tôi. Khi tôi kết thúc,
tôi muốn tóm tắt rất nhanh, chỉ chừng hai phút thôi, hãy lắng nghe.
Khi
chúng ta nhìn vào chương này, chúng ta thấy gì về Đa-ni-ên? Có phải bạn nhớ khi
chúng ta nghiên cứu chương 1 và chương 2? Chúng ta đã nắm lấy hết thảy những phẩm
chất nhân đức Đa-ni-ên trong vai trò một thanh niên và chúng ta đã đưa ra và đã
nghiên cứu chúng, và chúng ta thấy những điều tạo nên một người đạo đức, tin
kính. Phải, chúng ta sống ở đây, 20 - tốt, không, 60, 70 năm sau đó. Một lần nữa,
chúng ta nhìn thấy gì nơi ông? Đâu là các yếu tố phẩm chất mà chúng ta có thể chuyển
qua cho mình? Điều gì làm cho một người có ảnh hưởng đến cả một quốc gia? Điều
gì làm cho một người nam hay một người nữ có một cái chạm sâu xa đến cả một Đế
quốc? Điều đó là gì nơi Đa-ni-ên?
Cho
phép tôi đề nghị một số việc. Tôi sẽ trải chúng ra, chỉ cần lắng nghe thôi,
hãy suy nghĩ qua các việc ấy. Thứ nhứt, nhân vật nầy vượt qua lịch sử. Ông rất
vĩ đại, và ông ấy rất hữu ích cho Đức Chúa Trời vì ông đã vượt qua lịch sử. Ông
dời chân khỏi các vấn đề của con người. Ông đã tìm kiếm Vương quốc của Đức Chúa
Trời.
Thứ
hai, ông sống một cuộc sống kiên định từ đầu đến cuối. Ông là một người nhân đức
khi ông còn trẻ, và vì thế sống rất nhân đức khi cao tuổi. Và tôi thực sự tin rằng
không có một cách nào để đo lường với thước đo của con người về sự sống nhân đức
của các năm tháng ấy. Cái đáng buồn, ấy là hầu hết chúng ta nhìn thấy sự nhân đức
của chúng ta đến rồi đi qua các năm tháng đó. Đa-ni-ên không phải như vậy đâu.
Chúng
ta tiếp thu được các bài học gì về người của Đức Chúa Trời? Ông vượt qua lịch sử.
Ông sống một đời sống kiên định từ lúc trẻ đến lúc già, và điều này khiến cho
tuổi già của ông cứ mãi được lưu dụng. Thứ ba, ông chu toàn trọn vẹn sự kêu gọi
của mình. Nói cách khác, ông sống trong trọng tâm tuyệt đối của ý muốn Đức Chúa
Trời. Ao ước duy nhất của ông là ý muốn của Đức Chúa Trời sẽ được thành.
Thứ
tư, ông có một thái độ đúng đắn. Họ cứ nói về ông là ông có một tinh thần
vượt bật. Ông có linh tánh.
Thứ
năm, ông bị thế gian ở quanh ông ganh tỵ và thù ghét, song ông không hề cay đắng
về việc ấy.
Thứ
sáu, ông bị xét đoán, nhưng nếu ông bị xét đoán, ông bị xét đoán vì cớ sự công
bình của ông, vì chẳng có một tì vít chi cả. Ông sống như một trưởng lão
trong Hội thánh nên sống – sao chứ? – không tì vít.
Thứ
bảy, người ta biết đến ông vì sự nhân đức và ngay thẳng, thậm chí bởi các kẻ
thù mình.
Thứ
tám, ông là một công dân trung tín. Ông là đề tài cho luật pháp con người cho
tới chừng họ khiến ông vi phạm luật pháp của Đức Chúa Trời.
Thứ
chín, ông bằng lòng đối diện với bất kỳ hậu quả nào trong khuôn khổ ý muốn của
Đức Chúa Trời và để hậu quả lại cho Đức Chúa Trời.
Thứ
mười, ông trung tín phục vụ vô luận với giá nào theo cách riêng.
Thứ
mười một, ông không hề biện bác cho bản thân mình. Ông để điều đó lại cho
Đức Chúa Trời.
Thứ
mười hai, ông củng cố đức tin của những người khác, cung ứng cho họ niềm hy vọng
nơi Đức Chúa Trời. Bạn há không thấy việc nầy nơi nhà vua sao? Tôi muốn
nói, nhà vua thậm chí đã tin vì cớ đức tin lớn lao của Đa-ni-ên.
Thứ
mười ba, ông được giải cứu khỏi mọi tổn hại, và ông bền đỗ cho từng mục đích
trong ý muốn của Đức Chúa Trời.
Thứ
mười bốn, ông là phương tiện cho sự vinh hiển của Đức Chúa Trời. Tôi ước
ao chúng ta có thể rao giảng theo phương tiện ấy. Trên hết mọi sự, chúng
ta phải sống trong vai trò Cơ đốc nhân, làm một phương tiện cho sự vinh hiển của
Đức Chúa Trời.
Thứ
mười lăm, Đức Chúa Trời báo thù cho ông. Đức Chúa Trời báo thù cho ông. Đức
Chúa Trời xử lý hết mọi kẻ thù của ông. Ông không tự mình xử lý đối với
chúng.
Và
sau cùng, ông được những người ở chung quanh tôn vinh cũng như bởi Đấng ở bên
trên ông.
Các
nguyên tắc tỏ ra trong chương nầy cho thấy đời sống nhân đức của một người thuộc
về Đức Chúa Trời. Tôi hy vọng điều nầy sẽ rất thực nơi bạn, nguyện Đức
Chúa Trời sẽ áp dụng điều nầy cho tấm lòng của bạn cũng như Ngài sẽ áp dụng tấm
lòng của tôi. Chúng ta hãy cầu nguyện:
Lạy Chúa, cảm tạ Ngài, vì sự rung động
rất lớn trong việc nhìn thấy quyền phép Ngài tỏ ra. Chúng con cảm thấy như
chúng con có thể chìa tay ra và chạm đến Đa-ni-ên. Chúng con cảm thấy như chúng
con có thể nhìn thẳng vào cái hố đó và nhìn thấy bầy sư tử kia. Điều đó rất
sinh động đối với chúng con. Và chúng con nhìn biết Ngài chính là Đức Chúa Trời,
không thay đổi từ dạo ấy, Ngài làm thoả mãn chúng con tại thời điểm nhu cần lớn
lao nhất của chúng con. Ngài là Đức Chúa Trời, là Đấng muốn sử dụng chúng con để
vượt qua dòng lưu thông và dòng chảy của lịch sử. Ngài là Đức Chúa Trời là Đấng
đã kêu gọi chúng con sống đời sống mà Đa-ni-ên đã sống trong thời buổi này, từ
trẻ cho đến tuổi già.
Lạy Chúa, nguyện Ngài sẽ dấy lên thậm
chí trong hội chúng này và khắp nơi trên thế giới, nhiều người nam người nữ của
sự trung thực, ngay thẳng, và nhân đức, đời sống của họ được dâng hết hoàn toàn
cho Ngài, là Đấng chịu khổ song chẳng biết đến một sự cay đắng nào vì họ phó
chính mình họ cho việc giữ gìn của Đấng Tạo Hoá thành tín.
Lạy Chúa, xin khiến chúng con thành
ra hạng người nầy. Xin khiến con thành ra hạng người nầy bởi ân điển cao sâu của
Ngài. Xin nắn đúc con hầu cho đời sống con luôn bền đỗ, để con có thể nhìn biết
tình trạng được phước của một tuổi già hữu dụng nên Chúa Jêsus lưu dụng và Ngài
ưng bạn ơn ấy cho con. Con cầu nguyện y như thế cho tất cả những người thân yêu
đang nhóm lại ở đây, trong danh của Đấng Christ. Amen.
Nhận xét
Đăng nhận xét